thuật khâu này có tỉ lệ hẹp van mũi tái phát cao. Các tác giả có phương pháp chỉnh hình van mũi bằng sụn tự thân như Daniel, Maurice, D Heath Stacey có tỉ lệ bệnh nhân giảm nghẹt mũi sau phẫu thuật mức độ rất tốt chiếm tỉ lệ cao.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả tự đánh giá nghẹt mũi của bệnh nhân là rất tốt sau phẫu thuật nhưng thời gian theo dõi của chúng tôi tương đồi ngắn hơn so với các tác giả khác. Nên kéo dài thời gian theo dõi để có thể đánh giá chính xác hơn hiệu quả cũng như độ bền vững của kết quả phẫu thuật.
4.2.2.5 Cải thiện chức năng thẩm mỹ do bệnh nhân tự đánh giá
Chỉnh hình van mũi là phẫu thuật giúp cải thiện chức năng thở của mũi. Tuy nhiên trên bệnh nhân Việt Nam cũng như nước ngoài, dù vì nguyên nhân chấn thương hay sau phẫu thuật thẩm mỹ mũi thì hình dạng mũi bệnh nhân cũng bị biến dạng so với bình thường: vẹo lêch sống mũi, sụp lõm sống mũi, sống mũi có rãnh hình V ngược, sa chóp mũi, sụp thành bên mũi. Bệnh nhân đến điều trị với chúng ta một phần vì bị nghẹt mũi, một phần lại do hình dạng mũi bất thường gây mất thẩm mỹ.
Không phải là một trong những tiêu chí để đánh giá hiệu quả phẫu thuật chỉnh hình van mũi trong nhưng vấn đề thẩm mỹ mũi lại góp phần tạo nên sự hài lòng cho bệnh nhân nên chúng tôi vẫn ghi nhận sự tự đánh giá kết quả này của bệnh nhân (Bảng 3.17). Kết quả được chia 3 nhóm: đẹp hơn, không thay đổi và xấu hơn so với trước phẫu thuật. Sau phẫu thuật 1 tháng có 95,24% bệnh nhân thấy mũi đẹp hơn so với trước phẫu thuật, 4,76% thấy không thay đổi. Sau phẫu thuật 6 tháng có 97,62% bệnh nhân thấy mũi đẹp hơn so với trước phẫu thuật, 2,38% thấy không thay đổi. Tỉ lệ này của chúng tôi là cao so với các tác giả khác (Bảng 4.6) [7], [27], [30], [70].
Bảng 4.6 So sánh thẩm mỹ mũi sau phẫu thuật
Thời gian theo dõi | Kết quả đẹp hơn | Kết quả không thay đổi | Kết quả xấu hơn | |
Daniel (2003) | 6 tháng | 100% | - | - |
Andre (2004) | 12 tháng | 88% | 12% | - |
Maurice (2004) | 12 tháng | 89% | 11% | - |
D Heath Stacey (2009) | 3 tháng | 87,80% | 12,20% | - |
Nguyễn Thị Thanh Thúy (2015) | 6 tháng | 97,62% | 2,38% | - |
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Nghẹt Mũi Của Bệnh Nhân
- So Sánh Các Loại Mảnh Ghép Sử Dụng Trong Phẫu Thuật
- So Sánh Đánh Giá Nghiệm Pháp Cottle Sau Phẫu Thuật
- Phương Pháp Phẫu Thuật Và Qui Trình Kỹ Thuật Chỉnh Hình Van Mũi Trong Qua Đường Mổ Hở:
- Karl Rexer, Heather Allen, Paul Gearan (2011),2011 Data Miner Survey Summary, Presented At Predictive Analytics World.
- Chỉnh hình van mũi qua đường mổ hở điều trị nghẹt mũi - 20
Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.
Lý do của sự khác biệt có lẽ do nhóm nghiên cứu của chúng tôi đa số bệnh nhân bị hẹp van mũi sau chấn thương, mũi bị biến dạng. Vì vậy một sự cải thiện hình dạng mũi thích hợp là đã đạt được sự hài lòng của bệnh nhân. Còn các tác giả nước ngoài, mẫu nghiên cứu có nguyên nhân hẹp van mũi sau phẫu thuật mũi chiếm ưu thế. Sẽ rất khó để đưa hình dạng mũi trở nên đẹp hơn trước phẫu thuật và nhóm bệnh nhân này cũng đặt yêu cầu về tính thẩm mỹ cao hơn.
4.2.3 Tính ổn định
Chúng tôi xem xét tính ổn định kết quả phẫu thuật nhóm nghiên cứu dựa vào: Độ nghẹt mũi bệnh nhân tự đánh giá (NOSE), CSAmin trên kết quả đo AR và Góc van mũi trong đo trên CT scan.
4.2.3.1 Độ nghẹt mũi (NOSE)
Dùng phương pháp phân tích ANOVA thống kê cho kết quả: có sự khác biệt về độ nghẹt mũi giữa 3 thời điểm trước phẫu thuật, sau phẫu thuật 1 tháng và 6 tháng có ý nghĩa thống kê (p<0,0001). Phân tích sự khác biệt về nghẹt mũi tại 3 thời điểm, sử dụng paired t-test có hiệu chỉnh p cho so sánh nhiều lần bằng phương pháp Holm. Kết quả cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ nghẹt mũi ở thời điểm trước phẫu thuật và sau phẫu thuật 1 tháng (p<0,0001) và sau phẫu thuật 6 tháng (p<0,0001). Tuy nhiên không có sự khác biệt giữa sau phẫu thuật 1 tháng và sau phẫu thuật 6 tháng (p=0,26). (Biểu đồ 3.11). Điều này chứng tỏ kết quả phẫu thuật giúp cải thiện rõ rệt sự nghẹt mũi và hiệu quả này bền vững sau 6 tháng.
So sánh với các tác giả khác (Bảng 4.7) [27],[30],[70]
Bảng 4.7 So sánh tính ổn định về độ nghẹt mũi sau phẫu thuật
Thời gian theo dõi | Kết quả rất tốt | Kết quả tốt | Kết quả không thay đổi | Kết quả xấu | |
Daniel (2003) | 1-30 tháng | 100% | |||
Maurice (2004) | 12 tháng | 89% | - | 11% | |
D Heath Stacey (2009) | 3 tháng | 97,44% | - | 2,56% | - |
Nguyễn Thị Thanh Thúy (2015) | 6 tháng | 100% | - | - | - |
Daniel đạt kết quả cải thiện độ nghẹt mũi rất tốt 100% ổn định theo dõi dài nhất đến 30 tháng, Maurice đạt 89% rất tốt sau theo dõi 12 tháng. Đây là những kết quả ổn định với tỉ lệ tốt cao. Nghiên cứu của chúng tôi đạt tỉ lệ rất tốt 100% trên đánh giá nghẹt mũi ổn định sau 6 tháng. Tỉ lệ này cũng tương tự như các tác giả trên.
4.2.3.2 CSAmin
Dùng phương pháp phân tích ANOVA thống kê cho kết quả: có sự khác biệt về CSAmin giữa 3 thời điểm trước phẫu thuật, sau phẫu thuật 1 tháng và 6 tháng có ý nghĩa thống kê (p<0,0001). Phân tích sự khác biệt CSAmin tại 3 thời điểm: sử dụng paired t-test có hiệu chỉnh p cho so sánh nhiều lần bằng phương pháp Holm. Kết quả cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về CSAmin ở thời điểm trước phẫu thuật và sau phẫu thuật 1 tháng (p<0,0001) và sau phẫu thuật 6 tháng (p<0,0001); và cả sau phẫu thuật 1 tháng và 6 tháng (p=0,0002).
Điều này cho thấy kết quả phẫu thuật giúp tăng CSAmin và hiệu quả này còn được cải thiện tốt hơn sau 6 tháng (Biểu đồ 3.12).
4.2.3.3 Góc van mũi trong
Dùng phép kiểm paired t-test thống kê cho kết quả: có sự khác biệt về góc van mũi trong giữa 2 thời điểm trước phẫu thuật và sau phẫu thuật 6 tháng có ý nghĩa thống kê (p<0,0001).
Điều này chứng tỏ phương pháp phẫu thuật giúp mở rộng tốt góc van mũi trong, hiệu quả ổn định sau 6 tháng (Biểu đồ 3.13).
Các nghiên cứu nước ngoài không đánh giá độ ổn định góc van mũi trong sau phẫu thuật nên chúng tôi không có cơ sở so sánh.
4.2.4 Tính an toàn
Sau phẫu thuật bệnh nhân được chăm sóc theo chế độ phẫu thuật mũi thông thường với thuốc kháng sinh, kháng viêm, giảm đau, rút meche mũi nếu có và cắt chỉ vết mổ sau 1 tuần.
Theo thống kê, thời gian sưng nề sống mũi trung bình là 8,76 1,23 ngày. Bệnh nhân bị mất cảm giác vùng mũi trung bình là 1,88 0,34 ngày. Sưng nề vùng mắt trung bình là 1,3 0,35 ngày, ghi nhận đa số ở những trường hợp có làm osteotomy.
Biến chứng sau mổ trong nhóm nghiên cứu là 1 trường hợp bị sẹo dính hốc mũi sau mổ phát hiện qua khám nội soi ở lần tái khám sau 1 tháng. Bệnh nhân này được tách dính tại phòng soi và không còn sẹo dính ở lần tái khám sau 6 tháng. Chúng tôi không gặp các biến chứng khác như chảy máu/tụ máu sau mổ, nhiễm trùng/ abcess vùng mổ, sẹo xấu vùng mũi, vẹo lệch sống mũi hay hiện tượng thải trừ mảnh ghép.
Nói chung diễn biến hậu phẫu nhóm nghiên cứu thuận lợi, không gặp biến chứng nặng và chúng tôi có thể kết luận phẫu thuật chỉnh hình van mũi bằng sụn tự thân là loại phẫu thuật có độ an toàn cao.
Tổng hợp các nghiên cứu nước ngoài cho thấy phẫu thuật thẩm mỹ mũi nói chung và phẫu thuật chỉnh hình van mũi nói riêng là phẫu thuật an toàn. Chúng ta có thể gặp các biến chứng khi phẫu thuật không đúng kỹ thuật làm biến dạng mũi, sẹo hẹp gây nghẹt mũi. Ngoài ra còn có thể gặp tai biến trong gây mê như bất cứ cuộc mổ nào khác: sốc thuốc mê, sẹo hẹp thanh quản sau phẫu thuật [9],[16],[74].
4.2.5 Đánh giá kết quả chung
Chúng tôi đánh giá kết quả phẫu thuật dựa vào kết quả nghiệm pháp Cottle - Cottle cải tiến, đo AR và CSAmin, đo góc van mũi trong trên CT scan và điểm tự đánh giá nghẹt mũi của bệnh nhân (NOSE). Một tiêu chí tham khảo là mức độ đánh giá hài lòng về thẩm mỹ sau mổ của bệnh nhân.
Kết quả phẫu thuật được chia thành 4 nhóm: rất tốt, tốt, không thay đổi và xấu.
Chúng tôi ghi nhận kết quả trên mẫu nghiên cứu 42 bệnh nhân hẹp van mũi trong được phẫu thuật chỉnh hình van mũi bằng sụn tự thân, theo dõi sau 6 tháng như sau (Bảng 4.8):
Bảng 4.8 Kết quả phẫu thuật
Rất tốt | Tốt | Không thay đổi | Xấu | |
Nghiệm pháp Cottle- Cottle cải tiến | 42 | - | - | - |
CSAmin | 38 | - | 3 | 1 |
Góc van mũi trong | 40 | - | 2 | - |
Điểm NOSE | 42 | - | - | - |
Thẩm mỹ mũi | 41 | - | 1 | - |
Kết quả chung | 36 (85,71%) | 5 (11,91%) | 1 (2,38%) | 0 |
Patrick M. làm nghiên cứu tổng hợp về các kỹ thuật mổ chỉnh hình van mũi từ năm 1970 đến 2008. Nghiên cứu đủ tiêu chuẩn để đưa vào thống kê phân tích phải có ít nhất 10 bệnh nhân trong 1 nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu là nhằm cải thiện tình trạng nghẹt mũi và có thời gian theo dõi ít nhất 1 tháng cho mỗi bệnh nhân. Có 98 nghiên cứu được tìm thấy và qua phân tích có 43 nghiên cứu đủ tiêu chuẩn đưa vào thống kê. Không có nghiên cứu nào thuộc loại ngẫu nhiên có nhóm chứng. Một nghiên cứu được xếp loại nghiên cứu lâm sàng mức độ IIIb, còn lại tất cả nghiên cứu khác được xếp loại mức độ IV. 7 tác giả đưa ra những đánh giá khách quan trong nghiên cứu như đo khí áp mũi, diện tích mặt cắt trên kết quả đo mũi bằng sóng âm. 4 tác giả đưa ra phương pháp có giá trị đánh giá hiệu quả phẫu thuật. Hầu hết các nghiên cứu tập trung vào mô tả và đưa ra các kỹ thuật khác nhau trong phẫu thuật chỉnh hình van mũi hơn là việc xây dựng hệ thống bằng chứng về hiệu quả lâu dài trên bệnh nhân. Mặc dù vai trò của van mũi cũng như ảnh hưởng của nó lên tình trạng nghẹt mũi đã được biết rõ thì việc có rất nhiều kỹ thuật được áp dụng trong chỉnh hình van mũi lại phản ánh sự không chắc chắn trong kỹ thuật được chọn và mức độ lợi ích trên bệnh nhân [89].
Từ nghiên cứu tổng hợp của Patrick M. chúng tôi so sánh với các nghiên cứu có tiêu chuẩn đánh giá kết quả sau phẫu thuật chỉnh hình van mũi bằng sụn tự thân với phương pháp mổ hở (Bảng 4.9) [27],[30],[70],[76].
Bảng 4.9 So sánh kết quả phẫu thuật
Số bệnh nhân | Thời gian theo dõi | Rất tốt | Tốt | Không thay đổi | Xấu | |
Daniel (2003) | 21 | 1-30 tháng | 100% | - | - | - |
Maurice (2004) | 53 | 12 tháng | 89% | - | 11% | - |
Most (2006) | 31 | 9 tháng | 100% | - | - | - |
D Heath Stacey (2009) | 78 | 3 tháng | 97,44% | - | 2,56% | - |
Nguyễn Thị Thanh Thúy (2015) | 42 | 6 tháng | 85,71% | 11,91% | 2,38% | - |
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi dựa trên việc đánh giá nhiều tiêu chí hơn và phân nhóm kết quả cụ thể hơn so với các tác giả khác. Tỉ lệ bệnh nhân đạt kết quả tốt và rất tốt tương đương với các tác giả khác có cũng phương pháp chỉnh hình van mũi bằng sụn tự thân. Thời gian theo dõi nên kéo dài hơn để có giá trị thể hiện hiệu quả phẫu thuật ổn định theo thời gian.