- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chiến lược kinh doanh của Công ty Toyota Việt Nam để từ đó làm rõ các cơ hội và thách thức, các điểm mạnh và điểm yếu của Công ty.
- Đưa ra một số ý kiến đề xuất bước đầu nhằm hoàn thiện chiến lược kinh doanh cho Công ty Toyota Việt Nam, giúp Công ty có tầm nhìn chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các chiến lược kinh doanh và kết quả thực hiện chiến lược kinh doanh của Công ty Toyota Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2008.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là chiến lược kinh doanh của Công ty Toyota Việt Nam . Cụ thể, tác giả đã nghiên cứu trên cơ sở số liệu và tình hình thực hiện hoạt động kinh doanh của Công ty từ năm 1996 đến năm 2008.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình phân tích nội dung của đề tài, luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp diễn giải và quy nạp, phương pháp liệt kê…để có thể đưa ra những nhận định và kết luận đúng đắn cho từng vấn đề được đề cập.
5. Bố cục của luận văn.
Quá trình phân tích nội dung của đề tài được trình bày trong 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng chiến lược kinh doanh của Công ty Toyota Việt
Có thể bạn quan tâm!
- Chiến lược kinh doanh của công ty TOYOTA Việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - 1
- Mô Hình 5 Lực Lượng Của Michael Porter
- Xác Định Sứ Mạng, Mục Tiêu Và Chiến Lược Hiện Tại Của Tổ Chức
- Tình Hình Hoạt Động Sản Xuất Kinh Doanh Của Công Ty Toyota Ở Thị Trường Việt Nam
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Nam
Chương III: Một số giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện chiến lược kinh
doanh của Công ty Toyota Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
I. KHÁI QUÁT VỀ CHIẾN LƯỢC KINH DOANH
1. Các định nghĩa về chiến lược kinh doanh
Chiến lược là một thuật ngữ được hình thành từ rất sớm nó khởi nguồn trong lĩnh vực quân sự. Trong quân sự chiến lược được xem như là sự kết hợp giữa việc sử dụng mưu lược và các hành động quân sự cụ thể nhằm giành được thắng lợi trong các cuộc chiến tranh và nó được thể hiện thông qua các khái niệm kinh điển sau:
Theo từ điển chiến lược văn hoá Mỹ: “Chiến lược là khoa học và nghệ thuật quân sự được ứng dụng để lập kế hoạch tổng thể và tiến hành những chiến dịch quy mô lớn nhằm giành tới thắng lợi cuối cùng”. Còn theo từ điển Larause: “Chiến lược là nghệ thuật chỉ huy các phương tiện để chiến thắng”.
Thế nhưng khái niệm chiến lược mới chỉ du nhập sang lĩnh vực kinh tế từ sau đại chiến thế giới lần thứ II khi mà nền kinh tế các nước phục hồi nhanh chóng và có những bước phát triển nhảy vọt, mỗi nước đều nhận thấy rằng sức mạnh của một quốc gia không hoàn toàn dựa vào quân sự mà song song với nó phải là tiềm lực kinh tế vững mạnh và từ đó hai từ "chiến lược" dần trở lên phổ biến trong nền kinh doanh.
Tuy nhiên ta cũng có thể hiểu sự khác nhau cơ bản giữa chiến lược trong hai lĩnh vực này. Trong quân sự luôn có đối kháng, vì thế chiến lược của ta thành công thì địch thất bại và ngược lại. Còn trong lĩnh vực kinh doanh thì không hoàn toàn như vậy một chiến lược kinh doanh thành công không có nghĩa là các đối thủ cạnh tranh bị tiêu diệt mà có thể song song tồn tại với lợi ích chung .
Cho tới nay tồn tại rất nhiều khái niệm khác nhau về chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, tuỳ theo góc độ và khía cạnh nghiên cứu mà ta có thể đưa ra một số quan niệm về chiến lược kinh doanh như sau:
Theo giáo sư Micheal Porter, chuyên gia về chiến lược kinh doanh của trường đại học Havard (Mỹ) thì “chiến lược kinh doanh là nghệ thuật tạo lập các lợi thế cạnh tranh”
Còn theo nhóm BCG ( Boston consulting group ) thì chiến lược kinh doanh là xác định phân bổ các nguồn lực sẵn có với mục đích làm thay đổi thế cân bằng cạnh tranh và chuyển lợi thế cạnh tranh về phía mình.
Mặc dù chưa có sự thống nhất về khái niệm chiến lược kinh doanh, nhưng nhìn chung tất cả các nhà khoa học, các nhà quản trị học đều cho rằng chiến lược kinh doanh là các kế hoạch không những mang tính tổng thể và dài hạn mà còn mang tính năng động, tính cụ thể, tính sáng tạo và gắn liền với khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
2. Các đặc trưng của chiến lược kinh doanh
Chiến lược kinh doanh được xuất phát từ những kế hoạch và những kế hoạch này thường được triển khai trong dài hạn. Do đó để một Công ty làm ăn có hiệu quả, đòi hỏi Công ty đó phải xác định được cho mình những phương hướng, chính sách và những mục tiêu cụ thể cần đạt được trong những khoảng thời gian dài. Đây có thể được xem như những chiến lược phát triển của Công ty đó. Chính vì vậy, mỗi chiến lược kinh doanh thường mang những đặc trưng sau:
Thứ nhất, chiến lược kinh doanh luôn mang tính định hướng: Chiến lược kinh doanh của một doanh nghiệp thường được xây dựng cho thời kỳ tương đối dài, nó có thể là 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Chiến lược kinh doanh luôn hướng tới việc thực hiện thành công các mục tiêu đã đề ra trong thời kỳ chiến lược đó và định hướng hoạt động cho doanh nghiệp trong một môi trường kinh doanh luôn biến động. Khi khai triển thực hiện chúng ta
phải biết kết hợp giữa chiến lược có chủ định và chiến lược do cơ hội kinh doanh mang lại, giữ mục tiêu chiến lược và mục tiêu khởi phát. Quá trình thực hiện cũng phải uyển chuyển không cứng nhắc.
Thứ hai, mọi quyết định chiến lược quan trọng luôn được tập trung ở các lãnh đạo cấp cao doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa chỉ các nhà lãnh đạo mới có đủ thẩm quyền đưa ra các quyết định chiến lược, lựa chọn hướng phát triển cho doanh nghiệp. Đồng thời đảm bảo tính chuẩn xác trong các quyết định chiến lược, sự bí mật về các thông tin trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. Tuy nhiên trong điều kiện ngày nay để phát huy tính sáng tạo của từng cá nhân thì chiến lược cũng có thể được xây dựng dựa trên những đề xuất của các cấp công nhân trong Công ty.
Thứ ba, chiến lược luôn hướng tới mục tiêu giành thắng lợi: Khi xây dựng chiến lược các nhà quản trị luôn mong muốn đưa doanh nghiệp phát triển lên một tầm cao mới có sự thay đổi căn bản về chất. Vì thế chiến lược xây dựng dựa trên lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp và được thực thi dựa trên sự phát hiện và sử dụng các cơ hội kinh doanh .
3. Vai trò của chiến lược kinh doanh đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Ngày nay tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu và chính nó sẽ tác động tới mọi mặt đời sống xã hội của từng quốc gia, theo đó mỗi doanh nghiệp phải tự điều chỉnh để thích ứng đối với môi trường kinh doanh đầy biến động của nền kinh tế thị trường. Đặc điểm trên của môi trường kinh doanh có ảnh hưởng rất lớn đối với sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp. Nó vừa tạo ra cơ hội đồng thời cũng đặt các doanh nghiệp trước những thách thức mới. Nó buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại thì phải tìm ra cho mình một chiến lược kinh doanh mới phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới. Chính vì thế chiến lược kinh doanh được xem là nền tảng vững
chắc cho tương lai của doanh nghiệp và nó đóng một vai trò hết sức quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Điều đó thể hiện:
- Chiến lược kinh doanh đảm bảo sự phát triển bền vững cho doanh nghiệp.. Kinh doanh là một hoạt động luôn chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố bên trong và bên ngoài. Chiến lược kinh doanh giúp cho doanh nghiệp vừa linh hoạt vừa chủ động để thích ứng với những biến động của thị trường đồng thời chiến lược còn đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động đúng hướng và phát triển bền vững.
- Chiến lược kinh doanh giúp cho doanh nghiệp nắm bắt được các cơ hội thị trường dễ dàng hơn và tạo các lợi thế cạnh tranh trên thương trường.
Chiến lược cho phép doanh nghiệp chủ động và năng động hơn trong các hoạt động của mình, tạo cơ sở cho các doanh nghiệp chủ động phát triển các hướng kinh doanh phù hợp với môi trường trên cơ sở tận dụng các cơ hội, tránh các mối đe doạ và phát huy các điểm mạnh của mình trong kinh doanh. Chiến lược kinh doanh giúp các doanh nghiệp tham gia tích cực và chủ động hơn vào nền kinh tế thế giới.
Thông qua các hoạt động trên thị trường, các doanh nghiệp có thể tiếp thu kiến thức marketing và kinh nghiệm cho hoạt động kinh doanh của mình, khai thác các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh từ đó nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo tính cạnh tranh cho sản phẩm đứng vững trên thị trường trong nước và nước ngoài.
- Chiến lựơc kinh doanh nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước.
Chiến lược không những là kim chỉ nam cho doanh nghiệp hoạt động trên thị trường trong nước mà còn ở cả thị trường nước ngoài. Đây cũng là một chỉ tiêu để các bạn hàng xác định độ tin tưởng của các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cùng với sự thành công và có tính lâu dài các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chiến lược kinh doanh đã tạo nên sự tin
cậy của thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt động. Qua đó nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường và cũng chính điều này sẽ năng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước.
Trên đây là vai trò cơ bản của chiến lược kinh doanh đối với hoạt động của doanh nghiệp, vì vậy việc quản trị chiến lược là một việc làm thiết yếu và cấp thiết hiện nay đối với các doanh nghiệp.
4. Các cấp chiến lược của Công ty
Chiến lược kinh doanh có thể phân thành ba cấp chính bao gồm: chiến lược cấp Công ty, chiến lược cấp ngành kinh doanh và chiến lược chức năng. Ba cấp chiến lược này luôn tồn tại song song và hỗ trợ lẫn nhau. Thông thường các nhà quản trị cấp cao của Công ty sẽ chịu trách nhiệm đối với các chiến lược cấp Công ty, các nhà quản trị cấp trung sẽ chịu trách nhiệm đối với các chiến lược cấp ngành kinh doanh và các quản trị viên cấp thấp hơn sẽ chịu trách nhiệm đối với các chiến lược chức năng.
Hình 1.1. Các cấp chiến lược của công ty
Nguồn: Stephen P.Robbins, M.Coulter, R.Bergman và L.Stagg, “Quản trị học”
4.1. Chiến lược cấp công ty
Chiến lược cấp công ty là hệ thống những chiến lược tổng quát, chiến lược chung được xây dựng cho một tổ chức kinh doanh hoặc một doanh nghiệp. Mục tiêu của chiến lược cấp công ty là nhằm xác định những lĩnh vực kinh doanh mà doanh nghiệp nên tham gia vào. Chiến lược cấp công ty xác định cách thức mà công ty sẽ tiến hành hoạt động và vai trò của mỗi đơn vị kinh doanh trong tổ chức trong việc theo đuổi cách thức hoạt động đó. Cách thức phổ biến nhất để mô tả các chiến lược cấp công ty của tổ chức là khung các chiến lược cơ bản. Đây là vấn đề được xem xét đầu tiên. Việc thảo luận các chiến lược cấp công ty sẽ giúp cho các nhà quản trị có được những công cụ chiến lược cụ thể, từ đó có thể xác định được các lĩnh vực mà công ty sẽ tham gia. Chiến lược cấp công ty bao gồm các chiến lược sau:
Chiến lược ổn định: là chiến lược cấp công ty có đặc trưng là không có những thay đổi đáng kể. Những ví dụ về chiến lược này bao gồm: tiếp tục phục vụ một bộ phận khách hàng có cùng nhu cầu bằng cách cung cấp cùng một sản phẩm hay dịch vụ, duy trì thị phần, và duy trì mức tỷ suất lợi nhuận trên đầu tư của tổ chức.
Khi nào thì các nhà quản trị nên theo đuổi chiến lược ổn định? Khi họ cho rằng hoạt động của công ty là thoả đáng và môi trường có vẻ ổn định và không thay đổi; tổ chức sẽ tiếp tục những gì mà nó đã và đang làm và cho rằng không có lý do gì phải thay đổi. Các chiến lược ổn định thường phổ biến trong các công ty quy mô vừa và nhỏ hay các công ty do gia đình quản lý. Các chiến lược này cũng thường được thấy trong các doanh nghiệp khu vực chuyển đổi gia tăng giá trị vào những sản phẩm thuộc lĩnh vực họ kinh doanh.
Chiến lược tăng trưởng: là chiến lược cấp công ty nhằm tìm kiếm những cách thức để làm tăng mức độ hoạt động của tổ chức. Chiến lược tăng trưởng bao gồm việc tăng cường những biện pháp gia tăng về mặt số lượng như doanh số bán hàng, số lượng nhân viên và thị phần. Tăng trưởng có thể
đạt được thông qua việc mở rộng trực tiếp, hội nhập dọc, hội nhập hàng ngang hoặc đa dạng hoá.
Tăng trưởng thông qua việc mở rộng trực tiếp (còn gọi là tăng trưởng tập trung) có thể đạt được bằng cách tăng doanh số bán hàng, năng lực sản xuất và nguồn nhân lực trong nội bộ công ty. Không có công ty nào bị mua lại hoặc bị sáp nhập, thay vào đó, công ty sẽ chọn cách tăng trưởng thông qua chính các hoạt động kinh doanh của mình.
Một công ty cũng có thể lựa chọn chiến lược tăng trưởng thông qua việc hội nhập dọc, đây là nỗ lực để giành lấy quyền kiểm soát đầu vào (hội nhập dọc ngược chiều) và đầu ra (hội nhập dọc thuận chiều) hoặc cả hai. Trong chiến lược hội nhập dọc ngược chiều, tổ chức cố gắng giành lấy quyền kiểm soát đầu vào bằng cách trở thành nhà cung ứng chính.
Trong chiến lược hội nhập hàng ngang, công ty tăng trưởng bằng thường kết hợp với các công ty khác trong cùng một ngành. Điều này cũng đồng nghĩa với việc phối hợp hoạt động với các đối thủ cạnh tranh.
Cuối cùng, công ty có thể tăng trưởng bằng cách đa dạng hoá, có thể đa dạng hoá có liên quan hay không có liên quan. Đa dạng hoá có liên quan là khi công ty tăng trưởng thông qua việc sát nhập hoặc mua lại các công ty khác hoạt động trong cùng một ngành. Đa dạng hoá không liên quan là khi công ty tăng trưởng thông qua việc sát nhập hoặc mua lại các công ty hoạt động trong những ngành khác nhau.
Chiến lược suy giảm: là chiến lược cấp công ty, nhằm mục đích giảm qui mô hoặc mức độ đa dạng các hoạt động của công ty. Không ít tổ chức theo đuổi chiến lược suy giảm khi sự cạnh tranh gay gắt trên phạm vi toàn cầu và việc bãi bỏ các qui định đã ảnh hưởng đến hoạt động của họ hoặc buộc họ tốt hơn nên tập trung vào những hoạt động chính. Khi công ty gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, chiến lược suy giảm giúp phát triển doanh nghiệp trên cơ sở mở rộng hoạt động kinh doanh của mình sang những