Chiến lược hoạt động kinh doanh của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản - 2

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.

Từ nửa sau thế kỷ XX đến nay, các công ty xuyên quốc gia (Transnational corporations – TNCs) ngày càng có vai trò quan trọng và trở thành chủ thể quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Với nhiều chiến lược hoạt động của mình, TNCs đã trở thành kênh chủ đạo chuyển tải dòng vốn đầu tư cả trực tiếp và gián tiếp giữa các khu vực và các quốc gia trên toàn thế giới.

Thông qua mạng lưới TNCs, các nước công nghiệp phát triển có điều kiện để khai thác những khoản tiền nhàn rỗi trong nước tốt hơn, đưa những công nghệ, những ngành sản xuất không còn phù hợp với cơ cấu kinh tế trong nước ra nước ngoài, nhằm đổi mới công nghệ nền sản xuất trong nước cũng như giải quyết một phần các vấn đề về môi trường, sinh thái. Mặt khác, cũng thông qua chiến lược hoạt động đầu tư của hệ thống mạng lưới TNCs, nhiều nước đang phát triển có cơ hội nhận được nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến nhằm đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, rút ngắn khoảng cách với các nươc công nghiệp phát triển, đồng thời có cơ hội phát huy lợi thế của mình, hội nhập nền kinh tế thế giới.

Trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, tình hình kinh tế và chính trị thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc, nổi bật là: sự khủng hoảng và sụp đổ của các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô cũ; sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, sự phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa kinh tế; sự điều chỉnh quan hệ kinh tế quốc tế của nhiều nước, đặc biệt là các nước công nghiệp phát triển làm cho xung đột về thương mại và đầu tư giữa Nhật Bản, Bắc Mỹ và Tây Âu cũng trở nên căng thẳng hơn… Những tác động đó đã làm cho TNCs Nhật Bản càng tích cực hơn nữa trong việc thực thi các chiến lược đầu tư quốc tế nhằm tăng cường thế lực và ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế để đạt mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận.

Chiến lược hoạt động của TNCs nhật Bản đã tác động tích cực nhiều mặt, trước hết là đối với nền kinh tế Nhật Bản. Nó giúp cho Nhật Bản giải quyết được nhiều mất cân đối vĩ mô như: sự thiếu hụt về lao động và tài nguyên – nhiên liệu, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước, giảm bớt xung đột thương mại… Đồng thời nó cũng có nhiều tác động tích cực đến nền kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt là các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam, như: Bổ sung nguồn vốn còn hạn chế, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế…

Hiện nay, TNCs Nhật Bản đã đạt được những thành công đáng kể, rất đáng để học tập. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số hạn chế khó tránh khỏi như: những tác động kém tích cực cho nền kinh tế, khiến cho kết quả quan hệ kinh tế quốc tế đạt được chưa như mong đợi. Vì vậy việc đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu các chiến lược hoạt động kinh doanh của TNCs Nhật Bản là hết sức cần thiết cho nền kinh tế Nhật Bản nói riêng và cho nền kinh tế khu vực nói chung (cụ thể là khu vực các nước ASEAN), nhằm đạt được những kết quả cao hơn nữa. Từ tất cả các lý do trên, em xin chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận của mình.

2. Mục đích nghiên cứu.

Đề tài này tập trung vào việc làm rõ cơ sở lý luận về sự hình thành triển khai chiến lược hoạt động của TNCs Nhật Bản. Phân tích chiến lược hoạt động chủ yếu của TNCs Nhật Bản trong mối quan hệ với chiến lược phát triển nền kinh tế Nhật Bản, nêu lên một số đặc trưng nổi bật trongchiến lược hoạt động của Nhật Bản so với một số nước trên thế giới. Đánh giá hiệu quả và những tác động của các chiến lược hoạt động của TNCs Nhật Bản đối với nền kinh tế Nhật bản và nền kinh tế khu vực, từ đó đưa ra một số kiến nghị.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Đối tượng nghiên cứu chính của khóa luận là các chiến lược hoạt động kinh doanh đầu tư quốc tế của TNCs Nhật Bản trên phạm vi thế giới và khu

vực, cụ thể là khóa luận chỉ tập trung vào các chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của TNCs Nhật Bản. Phần tác động của các chiến lược hoạt động của TNCs Nhật Bản, khóa luận tập trung nghiên cứu những tác động đối với bản thân nền kinh tế Nhật Bản và đối với khu vực ASEAN.

Chiến lược hoạt động kinh doanh của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản - 2

Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là chiến lược hoạt động kinh doanh của TNCs Nhật Bản trong giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2006.

4. Phương pháp nghiên cứu.

Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học như: phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp hệ thống, so sánh, phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích kinh tế để sử lý dữ liệu... Đồng thời sử dụng, kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu khác của các tác giả trong và ngoài nước để làm rõ hoạt động của công ty xuyên quốc gia

5. Nội dung và bố cục khóa luận như sau:

Chương I: Cơ sở lý luận về chiến lược hoạt động kinh doanh của công ty xuyên quốc gia

Chương II: Thực trạng chiến lược hoạt động kinh doanh của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản

Chương III: Một số kiến nghị về chiến lược hoạt động kinh doanh của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản

Do thời gian nghiên cứu, khối lượng tài liệu nghiên cứu cũng như kiến thức còn hạn chế, mà vấn đề liên quan đến chiến lược hoạt động kinh doanh rất lớn nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em mong các thầy cô đóng góp ý kiến giúp em hoàn thiện đề tài này tốt hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong trường đã giúp em trong quá trình nghiên cứu và đặc biệt cảm ơn cô giáo – ThS. Bùi Liên Hà đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo để em hoàn thành khóa luận này.

Em xin chân thành cảm ơn!

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA‌‌


1.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA

1.1.1. Khái quát chung về công ty xuyên quốc gia (TNCs)

a) Khái niệm công ty xuyên quốc gia

Các công ty xuyên quốc gia (Transnational corporations-TNCs) xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi CNTB chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang độc quyền. Cho đến nay, TNCs trên thế giới tồn tại dưới nhiều hình thức kinh doanh theo kiểu các nhóm công ty xí nghiệp lớn hoạt động trên phạm vi quốc tế. Chúng là những công ty mạnh về tài chính với doanh số hàng năm lên đến hàng chục tỷ USD. Các tập đoàn này có nhiều chi nhánh, gồm các công ty con, cháu, và có thể hoạt động trong một hoặc nhiều lĩnh vực ngành nghề đa dạng. Tùy từng quốc gia và giai đoạn lịch sử mà chúng được gọi bằng những tên khác nhau như: Cartel, Syndicat, Trust, Consortium, Group, Cambinate, Holding company, Concern, Conglomerate. Ở Hàn Quốc người ta gọi là các Chaebol, ở Nhật Bản thường gọi là Zaibatsu hay Keiretsu…

Từ đó cho đến nay khái niệm về TNC cũng còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, dưới đây là một số quan điểm chủ yếu:

- Quan điểm thứ nhất: TNC là một nhóm (tập đoàn) các công ty, trong đó có một công ty mẹ có quyền sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp các công ty trong nhóm “trong cơ cấu nhóm như vậy, các công ty con có thể trở thành Holding company trong tập đoàn, có thể tự thực hiện các hoạt động, hoặc thông thường hơn nó chỉ hoạt động như là phương tiện sở hữu cổ phần trong tập đoàn các công ty, trong đó tập đoàn cũng như toàn bộ hoạt động đều có tính quốc

tịch (Nationality) vì nhiều mục đích khác nhau (như kiểm tra, giám sát của Chính phủ) và để đánh thuế theo những hoạt động mà chúng chịu trách nhiệm”.

- Quan điểm thứ hai: TNC là một thực thể kinh tế thực hiện sự liên kết kinh tế giữa các thành viên là các DN có quan hệ với nhau về công nghệ và lợi ích được gọi bằng các tên khác nhau như: Hiệp hội, LHXN, Tổng công ty theo mô hình tập đoàn, tập đoàn kinh doanh, tập đoàn kinh tế Nhà nước hoạt động vượt biên giới của một quốc gia…1

Về mặt thuật ngữ, người ta còn phân định các dạng thức kinh doanh quốc tế thành: công ty quốc tế, công ty đa quốc gia và công ty xuyên quốc gia.

Theo quan điểm này thì công ty quốc tế (International Enterprise/Firm) là những công ty hoạt động vượt ra ngoài lãnh thổ quốc gia nhưng vẫn sử dụng những phương thức ưu việt, thậm chí áp dụng cả luật pháp của nước họ tại nước sở tại. Lợi ích và hoạt động chiến lược của các công ty quốc tế cũng nằm trong sự phân công lao động quốc tế nhưng thực chất sự phân công chức năng chính vẫn thuộc công ty mẹ và đội ngũ lãnh đạo trong nước. Công tác quản lý còn mang tính tập trung cao, việc ra quyết định có khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa, đồng thời cán bộ trong nước nắm giữ những vị trí then chốt trong các chi nhánh ở nước ngoài. Công ty đa quốc gia (Multinational Corporations – MNCs hay Multinational Enterprises – MNEs) cũng xuất phát từ các công ty tư bản độc quyền lập các chi nhánh ở nước ngoài để hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng điểm nổi bật là tư bản thuộc sở hữu của công ty mẹ là của hai hoặc nhiều nước (ví dụ tập đoàn Royal Dutch/Shell Group có vốn sở hữu của Tư bản Anh và Hà Lan). Từ đặc trưng này mà người ta gọi là công ty siêu quốc gia, công ty đa quốc gia hay công ty liên quốc gia. Theo quan điểm này thì công ty xuyên quốc gia (Transnational


1 Nguyễn Đình Phan (chủ biên) (1996), “Thành lập và quản lý các Tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

Corporations – TNCs) là những công ty tư bản độc quyền có tư bản thuộc sở hữu của một chủ tư bản của một nước nhất định, có công ty mẹ đóng tại nước đó và thực hiện kinh doanh trên phạm vi quốc tế bằng các công ty con ở nước ngoài.

Cũng có ý kiến cho rằng TNCs là thực thể kinh doanh có cơ sở hoạt động kinh doanh nằm ở ít nhất là hai quốc gia trở lên. Ý kiến này tỏ ra ít thuyết phục vì nếu theo ý kiến này thì một số doanh nghiệp tư nhân hoặc một số doanh nghiệp nhỏ của Đài Loan hay Hồng Kông đến Việt Nam mở nhà hàng ăn uống cũng gọi là công ty xuyên quốc gia? Trên thực tế các công ty xuyên quốc gia phải là các tập đoàn tư bản độc quyền lớn, nó chứa đựng bên trong nhiều loại tư bản sản xuất, thương mại, tài chính…, chúng hoạt động liên kết với nhau, từ đó cho phép công ty có khả năng hoạt động linh hoạt, hiệu quả cao và phân tán rủi ro.

Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau, có một số ý kiến phân biệt, một số ý kiến đồng nhất công ty quốc tế (International Enterprises/Firms) với công ty xuyên quốc gia (Transnational Corporations) và công ty đa quốc gia (Multinational Corporations). Về bản chất giữa các thuật ngữ không có sự khác biệt đáng kể, chúng chỉ khác nhau ở việc xem xét các thực thể kinh doanh là từ giác độ sở hữu hoặc từ giác độ kinh doanh quốc tế, nó phản ánh đặc điểm nổi bật của TNCs trong từng giai đoạn lịch sử phát triển hoặc thói quen sử dụng từ ngữ của các học giả. Vì vậy, từ những quan điểm trên đây ta có thể rút ra một số nét đặc trưng điển hình của TNCs: Đó là một loại hình doanh nghiệp có quy mô lớn, sở hữu đa quốc gia, đa phần là dạng thức tập đoàn, kinh doanh đa ngành được hình thành và phát triển trên cơ sở những liên kết của nhiều doanh nghiệp, hoạt động trên phạm vi quốc tế v.v. Trên cơ sở đó, trong khóa luận này, sử dụng thống nhất một thuật ngữ là công ty xuyên quốc gia và khái niệm ở dạng khái quát nhất, như sau: TNCs là một tổ hợp các liên kết pháp nhân kinh doanh thông qua nhiều mô hình và phương

thức hoạt động khác nhau nhằm phát triển khoa học công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, gia tăng lợi thế về tập trung sản xuất và tính chất độc quyền trong khuôn khổ pháp luật. TNCs có quy mô lớn và rất lớn, hoạt động ở một hay nhiều ngành khác nhau trong phạm vi nhiều nước (phạm vi quốc tế), trong đó “công ty mẹ” nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các “công ty con” về mặt tài chính và chiến lược phát triển.

Khái niệm này đã phản ánh được những đặc trưng cơ bản của TNCs: Về quy mô, TNCs phải là một tập hợp những công ty mạnh có vốn lớn, nhiều nhân công, trình độ năng lực sản xuất kinh doanh cao; Về phạm vi hoạt động, nó vượt khỏi phạm vi một nước (xuyên quốc gia – phạm vi quốc tế); Về chức năng ngành nghề, nó có thể kinh doanh chuyên sâu một ngành hoặc đa ngành; Về cơ cấu tổ chức, TNCs phải là một tổ hợp bao gồm công ty mẹ và các công ty con, cháu, chi nhánh tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu.

Ngày nay, dưới tác động mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật làm cho lực lượng sản xuất biến đổi nhanh chóng, trình độ quốc tế hóa đời sống kinh tế ngày càng cao nên ở các nước có nhiều con đường hình thành TNCs: có thể từ các công ty tư bản độc quyền, công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc các công ty thuộc sở hữu Nhà nước. TNCs, ban đầu từ chỗ làm chủ thị trường quốc gia và khu vực sau đó vươn xa ra thị trường thế giới để hoạt động trên phạm vi quốc tế, đó cũng là một xu thế phổ biến trong điều kiện kinh tế hóa đời sống ngày càng được đẩy mạnh.

Như vậy, TNCs là khái niệm để chỉ tất cả các công ty hoạt động trên phạm vi quốc tế, nó là một loại hình kinh doanh hiện đại tiêu biểu nhất của nền kinh tế toàn cầu, là lực lượng chủ yếu thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế. Trong đó, TNCs chỉ có công ty mẹ có “quốc tịch” rõ ràng chi phối tổng số tư bản khổng lồ được tập trung trong công ty, còn các công ty con, các cổ đông ở khắp nơi trên thế giới chỉ là người góp vốn kinh doanh kiếm lời, không có

tiếng nói quyết định về phương hướng hoạt động, chiến lược phát triển của công ty. Nó là một cơ cấu tổ chức kinh doanh quốc tế, dựa trên cơ sở kết hợp giữa quy trình sản xuất quy mô lớn của nhiều thực thể kinh doanh quốc tế, với quá trình khai thác thị trường quốc tế nhằm tối ưu hóa các hoạt động kinh doanh giành lợi nhuận cao.

b) Nguồn gốc hình thành các công ty xuyên quốc gia

Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chứng minh rằng: phân công lao động xã hội càng phát triển thì quy mô sản xuất kinh doanh trong các thực thể công ty ngày càng lớn.

Trong những năm 60 thế kỷ thứ XIX, thuật ngữ công ty quốc tế (International Enterprises/Firms) ra đời. Hoạt động của các công ty này đã vượt khỏi phạm vi quốc gia, tổ chức sản xuất kinh doanh ở nhiều nước trên thế giới. Đầu thập kỷ 1970, thuật ngữ Multinational Enterprises - MNEs được sử dụng nhiều hơn thuật ngữ công ty quốc tế và có hàm ý phân biệt với công ty quốc tế. Trong thời kỳ này, cơ cấu tổ chức và hoạt động của MNEs chuyển sang cơ chế phi tập trung, hoạt động sản suất kinh doanh đa dạng hơn trước rất nhiều. Từ nửa cuối thập kỷ 1980 trở đi, do sự nới lỏng các quy chế đầu tư nước ngoài của các nước đang phát triển và xu hướng tự do hóa thị trường vốn quốc tế, các MNEs phát triển mạnh mẽ. Trào lưu các công ty mẹ (Parent Firms) mở rộng chi nhánh ra nhiều nước (Transnational) đã trở thành đặc điểm nổi bật cho thời kỳ này, cũng từ thời điểm này, thuật ngữ TNCs được sử dụng rộng rãi. Cho đến nay, mô hình TNCs đã chứng tỏ tính ưu việt của nó trong hoạt động kinh doanh và trở thành một xu thế tất yếu của thời đại vì những nguyên nhân cơ bản sau:

Nguyên nhân thứ nhất: Tích tụ và tập trung sản xuất ngày càng cao tất yếu đưa đến sự hình thành TNCs.

TNCs ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của nền sản xuất xã hội, của chế độ trao đổi thị trường và của quan hệ kinh tế quốc tế. Chúng bắt

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 30/04/2022