Thực Tiễn Áp Dụng Các Quy Định Về Nguyên Tắc Chia Tài Sản Chung Vợ Chồng Trong Thời Kỳ Hôn Nhân

phát huy được tác dụng và gần như mục đích đặt ra các quy định đó của nhà làm luật cũng không đạt được vì thiếu cơ chế kiểm soát hiệu quả.

Trên đây là sự phản ánh của thực tiễn đối với các quy định của pháp luật liên quan đến điều kiện (về mặt nội dung và hình thức) của chế định chia tài sản chung vợ chồng khi hôn nhân còn tồn tại. Tuy nhiên, còn một vấn đề khác hiện nay cũng liên quan đến điều kiện chia tài sản chung nhưng chưa được luật quy định cụ thể đó là chủ thể có quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng. Theo câu chữ quy định tại Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000, "Khi hôn nhân còn tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung…nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết" [34]. Khoản 3 Điều 6 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP cụ thể hóa quy định tại Điều 29 nói trên, "Trong trường hợp vợ, chồng thỏa thuận được về chia tài sản chung, thì cả hai bên hoặc một bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết" [4]. Từ những quy định trên có thể suy luận rằng chủ thể có quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng là cả hai vợ chồng hoặc mỗi bên vợ hoặc chồng. Nhưng Khoản 2 Điều 224 BLDS năm 2005 về chia tài sản chung lại có quy định:

Trong trường hợp có người yêu cầu một trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán khi người đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán, thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh toán và được tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác [38].

Thực tiễn có thể phát sinh những trường hợp vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán, dù không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán nhưng vợ chồng lại cố tình không chia tài chung để thanh toán cho người có quyền nhắm trốn tránh nghĩa vụ. Điều 224 BLDS năm 2005 quy định cho việc chia tài sản chung của tất cả các chủ thể nói chung, nhưng vấn đề ở đây là, liệu có thể áp dụng quy định này để buộc người có nghĩa vụ với

bên thứ ba phải chia tài sản chung của vợ chồng họ để giải quyết nghĩa vụ cho bên thứ ba hay không? Người thứ ba có quyền yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng và tham gia vào việc chia tài sản chung đó không? Việc chia tài sản chung của vợ chồng ở đây, nếu có, sẽ không phải là chia để bảo vệ lợi ích của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, mà là nhằm bảo vệ lợi ích của bên thứ ba. Vậy, "trong trường hợp này, nếu không thừa nhận quyền yêu cầu của người có quyền (chủ nợ) về chia tài sản chung của vợ chồng để lấy phần tài sản của người có nghĩa vụ thanh toán nợ, thì quyền lợi của họ được đảm bảo như thế nào?" [15]. Về nguyên tắc, pháp luật không thể tối đa hóa quyền của vợ chồng mà bỏ qua quyền lợi hợp pháp của người thứ ba. Rõ ràng, quyền lợi chính đáng của người có quyền (chủ nợ) cần có cơ chế bảo vệ thích hợp bên cạnh việc bảo đảm quyền lợi của vợ chồng.

Hiện nay, Luật HN&GĐ mới chỉ quy định các trường hợp chia tài sản chung bị vô hiệu theo yêu cầu của những người có quyền, lợi ích liên quan còn chưa quy định trường hợp người có quyền, lợi ích liên quan - cụ thể là người mà vợ, chồng có nghĩa vụ thanh toán, được yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng để bảo vệ quyền lợi của mình. Vậy trong trường hợp này, người thứ ba có thể dẫn chiếu quy định tại Điều 224 BLDS năm 2005 để yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng hay không? Nếu không được quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng thì có cơ chế nào để bảo vệ quyền lợi của họ không? Đây là sự không tương thích giữa Luật HN&GĐ với tư cách là một đạo luật chuyên ngành và BLDS với tư cách là một đạo luật chung. Điểm vướng mắc này cần được luật chung và luật chuyên ngành tháo gỡ bằng những quy định cụ thể, rõ ràng để vừa bảo vệ chế độ tài sản chung của vợ chồng vừa đảm bảo được quyền lợi của người có quyền.

2.1.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về nguyên tắc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Trong trường hợp vợ hoặc chồng có nhu cầu chia tài sản chung nhưng không nhận được sự nhất trí của người còn lại hoặc vợ chồng đồng thuận chia nhưng lại không thỏa thuận được về phạm vi tài sản chia và phần tài sản mối

người được nhận, họ cần đến Tòa án để giải quyết bất đồng dựa trên những căn cứ pháp lý cụ thể. Tuy nhiên, tại Tòa án, cơ quan có thẩm quyền sẽ dựa trên căn cứ pháp lý nào để chia? Về mặt lý thuyết, Luật HN&GĐ năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định nguyên tắc chia khi tài sản chung của vợ chồng được chia tại Tòa án. Có thể chính vì lý do đó, cùng với việc pháp luật quy định thủ tục chia đơn giản, phương thức chia dễ dàng bên cạnh đó là thói quen "kín đáo" và tâm lý ngại "gõ cửa quan" của người Việt Nam mà việc chia tài sản chung của vợ chồng rất ít gặp trong thực tiễn xét xử của Tòa án. Vì ít được cọ xát khi giải quyết các vụ việc thực tế, phần lớn các Tòa đều thiếu kinh nghiệm trong việc giải quyết loại yêu cầu này. Sự thiếu vắng các quy định pháp luật cụ thể cộng với việc thiếu kinh nghiệm thực tế sẽ là khó khăn lớn cho Tòa án khi nhận được yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng.

Trong thực tiễn, khi có vụ việc, một số Tòa án đã vận dụng linh hoạt một số nguyên tắc chia tài sản chung khi ly hôn để giải quyết việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Nghĩa là, về nguyên tắc, tài sản chung được chia đôi, có xem xét hoàn cảnh, công sức đóng góp của mỗi bên trong việc tạo lập, duy trì khối tài sản chung…đồng thời phân chia cả tài sản nợ nếu vợ, chồng có yêu cầu (Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000). Ví dụ, vụ án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lương Quang Nhĩ và bà Phạm thị Xuyên (trong ví dụ tại mục 2.1.1 nêu trên), bà Xuyên yêu cầu chia tài sản chung là 152,5 m2 đất ở tại số 10A - Ngõ 64 - đường Nguyễn An Ninh - thành

phố Hải Dương. Theo bà Xuyên thì phần diện tích này trước đây là đất ao bà bỏ tiền ra thuê san lấp hết 10.000.000 đồng, để có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà phải vay để nộp phí trước bạ là 25.340.000 đồng. Bà đề nghị được xem xét công sức đóng góp của Bà trong việc tạo dựng tài sản để được chia nhiều hơn ông Nhĩ và ông Nhĩ phải trả Bà một nửa tiền thuế trước bạ là

12.670.000 đồng để Bà trả nợ.

Bản án sơ thẩm số 05/2008/HNGĐ-ST của TAND thành phố Hải Dương đã xử giao ông Nhĩ được sở hữu 67,5 m2 đất trị giá 202.500.000 đồng, bà Xuyên được sở hữu 85 m2 đất trị giá 255.000.000 đồng và xác nhận số nợ

25.340.000 đồng là nợ chung của vợ chồng. Ông Nhĩ trả bà Xuyên

12.670.000 đồng để bà Xuyên trả nợ.

Như vậy, TAND thành phố Hải Dương đã tiến hành phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo nguyên tắc chia tài sản chung khi ly hôn. Đây có thể coi là trường hợp áp dụng tương tự quy phạm pháp luật tức là "giải quyết vụ việc thực tế, cụ thể nào đó chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh trên cơ sở quy phạm pháp luật điều chỉnh trường hợp khác có nội dung gần giống như vậy (hai sự việc có nội dung gần giống hay tương tự nhau)" [56, tr. 200]. Việc áp dụng pháp luật tương tự như vậy được chấp nhận trong điều kiện không có quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp. Tuy nhiên, do không được quy định cụ thể nên không phải Tòa án nào cũng áp dụng pháp luật tương tự như vậy. Điều đó có thể dẫn đến tình trạng cùng một loại việc nhưng tại những Tòa án khác nhau lại có những nhận định khác nhau từ đó dẫn đến đường lối giải quyết khác nhau và hệ quả là quyền, lợi ích của vợ chồng sẽ bị ảnh hưởng.

2.1.3. Thực tiễn áp dụng các quy định về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Hậu quả chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được quy định tại Điều 30 Luật HN&GĐ năm 2000. Theo đó "hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng" [34]. Quy định trên là hoàn toàn hợp lý và logic. Tuy nhiên, khi hướng dẫn chi tiết thi hành điều khoản trên, Nghị định số 70/2001/NĐ-CP đã quy định "thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác" [4, Khoản 2 Điều 8]. Như vậy, sau khi chia tài sản chung thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh trở thành tài sản riêng của vợ, chồng là mâu thuẫn với quy định về nguồn gốc tài sản chung của vợ chồng vì theo quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 thì "thu nhập do lao động,

hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác mà vợ chồng làm ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng" [34]. Theo tác giả Nguyễn Phương Lan thì quy định tại Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP không chỉ mâu thuẫn với quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 mà còn "không phù hợp với ý chí và mong muốn của vợ chồng bởi vì khi có yêu cầu chia tài sản chung, vợ hoặc chồng chỉ mong muốn chia tài sản để có điều kiện thực hiện các nghĩa vụ riêng về tài sản hoặc đầu tư kinh doanh riêng…mà không muốn chấm dứt chế độ sở hữu chung" [21]. Chúng tôi nhất trí với nhận xét trên vì một trong những lý do để vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là để vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng. Mục đích chính của của vợ chồng khi chia tài sản chung khi vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng là nhằm tránh những ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động đầu tư kinh doanh đến đời sống chung của gia đình. Như vậy, mong muốn của vợ chồng khi chia tài sản chung là bảo toàn khối tài sản chung trước những rủi ro từ việc đầu tư, kinh doanh của vợ hoặc chồng có thể mang lại chứ không phải nhằm chấm dứt chế độ tài sản chung như quy tại Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP. Mặt khác, sau khi chia, hôn nhân vẫn tồn tại, các chi phí liên quan đến đời sống chung của gia đình vẫn phát sinh hàng ngày nhưng theo quy định tại Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì tài sản chung lại không tiếp tục được bổ sung, phát triển để đáp ứng các nhu cầu đó ví dụ chi phí điện, nước sinh hoạt, tiền học của con cái... Vậy áp dụng quy định trên, vợ chồng sẽ lấy tài sản nào để chi tiêu, chăm lo cho đời sống chung của gia đình khi tài sản chung không còn và luật cũng không có quy định nào về nghĩa vụ đóng góp của vợ, chồng vào việc đảm bảo cuộc sống gia đình sau khi chia tài sản chung? Như vậy, về mặt lý thuyết, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm ảnh hưởng đến việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của vợ chồng do sau khi chia, hôn nhân vẫn tồn tại, vợ chồng vẫn có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ với nhau. Đồng thời, vợ chồng với cương vị là cha, mẹ vẫn phải thực hiện các quyền nghĩa vụ đối với các con như trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, chăm lo cho việc học tập, giáo dục để con phát triển lành

mạnh... Tuy nhiên, áp dụng vào thực tế, khi tài sản chung còn lại không đáng kể, thậm chí là không còn, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng… thì việc đảm bảo đời sống của gia đình, của các con lại hoàn toàn phụ thuộc vào thỏa thuận của vợ chồng, vào lương tâm, trách nhiệm của cha mẹ với con cái. Đặt giả thiết, sau khi chia tài sản chung, một bên vợ, chồng không tự giác đóng góp tiền để chi trả các chi phí cho gia đình, nuôi dạy con cái… thì người còn lại có quyền yêu cầu Tòa án buộc người đó phải đóng góp cho kinh tế gia đình hoặc cấp dưỡng cho con hay không? Có thể, vợ chồng sẽ lúng túng và bất ngờ về những hậu quả của chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được pháp luật quy định kể trên nếu không tìm hiểu kỹ và thỏa thuận một giải pháp hợp lý cho vợ chồng, gia đình trong tình huống này.

Một vấn đề khác rất được vợ chồng quan tâm sau khi chia tài sản chung đó là quy định về thủ tục sang tên đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu. Theo quy định của pháp luật, việc đăng ký các tài sản, quyền tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng phải ghi tên của cả vợ và chồng, vì vậy "trong trường hợp vợ chồng ly hôn hoặc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì bên được chia phần tài sản bằng hiện vật đã đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng mà có ghi tên vợ và chồng có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký tài sản cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng" [4, Khoản 4 Điều 5]. Các tài sản loại này phổ biến là nhà ở và quyền sử dụng đất. Trong trường hợp nói trên, khi vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung, văn bản thỏa thuận phải được công chứng theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, tìm hiểu tại một số văn phòng công chứng (Nhà nước và tư nhân) trên địa bàn thành phố Hà Nội thì số lượng các văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được công chứng là rất khiêm tốn.

Bảng 2.1: Số lượng văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được công chứng tại Phòng công chứng số 4

thành phố Hà Nội


Năm

2007

2008

2009

2010

2011

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.

Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện - 8





(tính đến tháng 6)

Số lượng

105

98

81

82

29



(Nguồn: Văn phòng công chứng Hà Nội).


Bảng 2.2: Số lượng văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được công chứng tại Văn phòng công chứng Hà Nội



Năm


2008* + 2009


2010

2011

(tính đến tháng 6)

Số lượng

32

29

12

(Nguồn: Văn phòng công chứng Hà Nội).

Chú thích: * Văn phòng bắt đầu đi vào hoạt động ngày 23/7/2008).


Nếu chỉ nhìn vào số lượng nói trên có thể đi đến nhận định trên thực tế số lượng các vụ yêu cầu chia tài sản chung tại các phòng công chứng là rất ít. Tuy nhiên, sự thực là các số liệu nói trên không phản ánh đúng thực tế các thỏa thuận liên quan đến việc chia tài sản chung vợ, chồng. Nhu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng hiện nay là khá nhiều, tuy nhiên, không phải mọi trường hợp vợ chồng đều làm thỏa thuận chia tài sản chung. Nhiều trường hợp vợ chồng chọn làm cam kết tài sản riêng của vợ, chồng hoặc làm hợp đồng tặng cho phần quyền sở hữu của mình cho chồng, vợ… (xem Phụ lục). Thực trạng trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: việc thiếu những quy định cụ thể về thủ tục khiến cả đương sự lẫn công chứng viên không thuận lợi khi áp dụng quy định pháp luật về chia tài sản chung vợ chồng; các quy định về những miễn giảm nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước khi vợ chồng khi làm thủ tục cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đối với những tài sản được chia theo thủ tục chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có những sự "lệch pha" khiến các đương sự "lách" việc chia tài sản chung dưới các loại hợp đồng khác.

Theo quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2008, "thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng…" "thu nhập từ nhận quà

tặng là bất động sản giữa vợ với chồng…" được miễn thuế thu nhập cá nhân (Khoản 1 và Khoản 4 Điều 4). Trong khi đó, vợ, chồng cũng có thể có thu nhập (phần giá trị tài sản tăng lên) sau khi chia tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận một người nhận tài sản là quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu nhà có giá trị lớn hơn phần mà họ được hưởng theo quy định pháp luật hoặc chia cho một người toàn bộ bất động sản, còn người kia chỉ nhận một số động sản có giá trị nhỏ... Trường hợp này có được coi là tặng cho hay chuyển nhượng bất động sản giữa vợ chồng không và có được miễn thuế thu nhập cá nhân theo quy định kể trên hay không thì Luật thuế thu nhập cá nhân hiện hành không có quy định cụ thể. Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30 tháng 9 năm 2008 của Bộ Tài chính "Hướng dẫn thi hành một số điều Luật thuế thu nhập cá nhân và Nghị định số 100/2008/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều Luật thuế thu nhập cá nhân", tại mục 1.2, III, quy định hồ sơ miễn thuế đối với trường hợp chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng như sau: Đối với bất động sản chuyển nhượng giữa vợ với chồng cần một trong các giấy tờ sau: Bản sao sổ hộ khẩu hoặc bản sao giấy chứng nhận kết hôn hoặc quyết định của tòa án xử ly hôn, tái hôn (đối với trường hợp chia nhà do ly hôn, hợp nhất quyền sở hữu do tái hôn). Như vậy, quy định về hồ sơ miễn thuế đối với chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng cũng chỉ nhắc tới trường hợp chia nhà do ly hôn và hợp nhất quyền sở hữu do tái hôn. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn đối với các tài sản là bất động sản sẽ "rơi" vào trường hợp nào và có thuộc diện được miễn thuế thu nhập cá nhân hay không vẫn là vấn đề không rõ ràng. Trong khi đó, nếu vợ chồng làm cam kết tài sản riêng (với những tài sản đang đứng tên một người) hoặc hợp đồng tặng cho, chiếu theo các quy định pháp luật (Khoản 4 Điều 4 Luật Thuế thu nhập cá nhân) thì vợ, chồng được nhận tài sản sẽ không phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Quy định thiếu đồng bộ giữa Luật HN&GĐ năm 2000 và Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2008 cùng với các văn bản hướng dẫn hai Luật trên về các vấn đề của chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đặc biệt là về hậu quả pháp lý của nó tiếp tục là lý do để vợ chồng tìm cách "lách luật" trên thực tế để tối đa hóa lợi ích của mình.

Xem tất cả 132 trang.

Ngày đăng: 22/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí