Chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng kinh doanh, thương mại - 2


* Chương 2: Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.‌‌

* Chương 3: Một số bất cập và phương hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.

* Kết luận: Khái quát những vấn đề đã nghiên cứu trong luận văn.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG


1. Khái niệm và bản chất

1.1. Khái niệm

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 77 trang tài liệu này.

Bồi thường thiệt hại là một chế tài dân sự được áp dụng nhằm bù đắp những thiệt hại thực tế mà bên vi phạm đã gây ra cho bên bị vi phạm. Cùng với chế tài bồi thường thiệt hại thì chế tài phạt vi phạm hợp đồng cũng là một chế tài được áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra. Tuy nhiên, việc áp dụng hai chế tài này có ý nghĩa khác nhau, nếu như chế tài phạt hợp đồng với chức năng chủ yếu là trừng phạt, giáo dục và phòng ngừa thì chế tài bồi thường thiệt hại lại có chức năng là bồi hoàn, bù đắp và khôi phục những lợi ích vật chất cho bên bị thiệt hại.

Tiền bồi thường thiệt hại là khoản tiền mà bên vi phạm phải trả cho bên bị vi phạm do hậu quả trực tiếp của việc vi phạm hợp đồng gây ra (chỉ kể những hậu quả trực tiếp do vi phạm hợp đồng này dẫn đến sự vi phạm hợp đồng với người khác).

Chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng kinh doanh, thương mại - 2

Thực tiễn cho thấy, khi giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng và xử lý vi phạm hợp đồng, Toà án và các bên tranh chấp đã áp dụng các hình thức trách nhiệm vật chất nói trên tuỳ theo từng trường hợp cụ thể.


Khi so sánh chế tài bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, có thể thấy rằng chế tài bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bên cạnh những điểm tương đồng thì cũng có những điểm khác biệt cơ bản đó chính là pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không có quy định về phạt vi phạm hợp đồng, bởi lẽ sự vi phạm trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phát sinh trên cơ sở hợp đồng.

1.2. Bản chất

Xét về bản chất, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà hậu quả pháp lý của nó về mặt tài sản được xác định dựa trên thiệt hại thực tế đã xảy ra và phát sinh khi có hành vi vi phạm hợp đồng. Theo đó, thì bên vi phạm hợp đồng buộc phải bồi thường cho bên bị vi phạm những thiệt hại thực tế xảy ra. Trong khi đó, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng lại là hình thức trách nhiệm dân sự buộc người có lỗi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác phải bồi thường và cơ sở của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là những quy định của pháp luật (quy định những hậu quả pháp lý ngoài mong muốn của chủ thể) không có sự thoả thuận trước của các bên và được phát sinh trên cơ sở hành vi bất hợp pháp. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ bốn điều kiện1.

Khoa học luật dân sự phân biệt hai loại trách nhiệm dân sự đó là trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự do gây ra thiệt hại2. Theo đó, trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ được hiểu là một bên không



1 Xem: Toà án nhân dân Tối cao, các văn bản quy phạm pháp luật của Toà án nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành pháp luật, Hà Nội 2005, tr. 186.

2 ThS. Trần Thị Huệ ”Trách nhiệm dân sự và một số vấn đề về xác định thiệt hại”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 1/2005, tr. 2.


thực hiện được hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ những cam kết trong nội dung của nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự với bên có quyền. Tuy nhiên, nếu sự vi phạm chưa gây ra thiệt hại thì bên vi phạm phải có trách nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ, nếu sự vi phạm đã gây ra thiệt hại cho bên mang quyền thì bên vi phạm nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong khi đó, trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại chỉ được áp dụng chừng nào hành vi vi phạm đó đã gây ra trên thực tế một thiệt hại nhất định.

Chính vì vậy, để bên bị vi phạm có thể được bồi thường thiệt hại thì phải thoả mãn 4 căn cứ làm phát sinh việc bồi thường thiệt hại.


2. Căn cứ phát sinh bồi thường thiệt hại

Trách nhiệm pháp lý nào cũng vậy, từ trách nhiệm hình sự, dân sự, hành chính, lao động….đều luôn được dựa trên những căn cứ pháp lý nhất định. Đó chính là những cơ sở, những yếu tố để xác định trách nhiệm bồi thường cũng như xác định chủ thể và mức bồi thường. Việc bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng chỉ được xem xét, áp dụng khi có những căn cứ nhất định phát sinh, đó là phải có hành vi vi phạm hợp đồng; Có thiệt hại thực tế xảy ra; Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế; Có lỗi của bên vi phạm.

2.1. Hành vi vi phạm

Hành vi là một yếu tố gắn liền với sự tồn tại và phát triển của con người và hành vi chính là phương thức để con người duy trì đời sống của mình trong sự tương tác hữu cơ với thế giới tự nhiên và xã hội. Khi con người trở thành đối tượng của khoa học thì hành vi là một nội dung cơ bản và được nhiều bộ môn khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Tại Việt


Nam hiện nay, khi bàn đến khái niệm hành vi cũng có nhiều ý kiến khác nhau, mỗi ý kiến được tiếp cận ở một góc độ nhất định.

Dưới góc độ ngôn ngữ, hành vi tiếng Anh (Behaviour) được hiểu là “Cách thức mà con người xử sự trong những tình huống cụ thể”3. Theo tiếng Pháp, hành vi (Conduite) là “Việc một người làm và bằng cách đó thực hiện một ý định của mình”4. Theo từ điển tiếng Việt, “Hành vi là cách ứng xử được biểu hiện bằng cử chỉ, hành động cụ thể”5. Hoặc hành vi là một bộ phận của hoạt động và luôn được điều khiển bởi ý thức “Hành vi là những biểu hiện chỉ bộc lộ ra bên ngoài của hoạt động và bao giờ cũng gắn liền với động cơ, mục đích”6. Hoặc “Hành vi là những phản ứng, cách cư xử biểu hiện ra ngoài của một con người trong một hoàn cảnh cụ thể, nhất định”7.

Dù được hiểu ở góc độ này hay góc độ khác thì hành vi có phương thức biểu hiện thực tế là hành động và không hành động, đây chính là yếu tố thể hiện phương thức sống (hay tồn tại) của hành vi trên thực tế. Hành động là dạng thức hành vi thể hiện thái độ chủ động của chủ thể trong việc bộc lộ những thao tác ra bên ngoài thế giới khách quan. Không hành động là dạng thức hành vi thể hiện thái độ chủ động của chủ thể trước một yêu cầu nào đó và đã không bộc lộ những thao tác cụ thể ra ngoài thế giới khách quan nhưng gắn với một kết quả thực tế8.




3 Oxford University (2006); Oxford Advance Learner’s Dictionary, Oxford University Press, Oxford.

4 (1996) Le Nouveau Petit Robet, Société Dictionaires Le Robet, Paris.

5 Nguyễn Như Ý (Chủ biên -1994) Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo dục, H, tr. 456.

6 Phạm Minh Hạc, tuyển tập tâm lý học, Nxb Giáo dục, Hà Nội 2005, tr. 141 - 148.

7 Viện ngôn ngữ học (2003) Từ điển tiếng việt, Nxb Đà Nẵng, tr. 423.

8 TS. Lê Vương Long “Một số vấn đề lý luận về hành vi và hành vi pháp luật” Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 221/2006, tr. 23.


Tuy còn nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về hành vi nhưng có thể nhận thấy rằng hành vi vi phạm hợp đồng hiểu theo nghĩa chung nhất là hành vi của một bên đã xử sự trái với những quy định của pháp luật hoặc trái với nội dung đã cam kết, đó chính là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ những nghĩa vụ đã thoả thuận, cam kết trong hợp đồng.

góc độ hành vi vi phạm được xem xét là cơ sở để bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì đây lại là hành vi trái pháp luật bởi theo quy định chung mọi công dân, tổ chức có quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự. Chính vì vậy, người nào có hành vi xâm phạm đến các quyền này đều bị coi là hành vi trái pháp luật cho dù họ có lỗi cố ý hay lỗi vô ý.

2.2. Thiệt hại thực tế

Khi xác định trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ thì yếu tố đầu tiên phải được xem xét đó là hành vi vi phạm nghĩa vụ. Tuy nhiên, khi xác định trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại thì yếu tố đầu tiên cần phải xem xét là có thiệt hại xảy ra hay không, vì trách nhiệm này chỉ được áp dụng khi hành vi vi phạm pháp luật đã gây ra trong thực tế một thiệt hại nhất định. Nếu không có thiệt hại thì không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điều này cho thấy, mặc dù có hành vi vi phạm pháp luật thì cũng chưa đủ cơ sở để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Dưới góc độ ngôn ngữ, thiệt hại thực tế tiếng Anh (Substantial damage), hiểu theo nghĩa chung nhất là những thiệt hại về vật chất có thể tính toán, định hình định lượng được chứ không phải là thiệt hại chung chung. Chính vì vậy, thiệt hại thực tế là điều kiện tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt hại, bởi lẽ mục đích của trách nhiệm bồi thường là khôi phục lại tình trạng trước khi xảy ra thiệt hại nên trách nhiệm thường gắn liền với bồi thường (bằng tài sản hoặc bằng tiền) cho những thiệt hại xảy ra. Thiệt hại


phải là sự giảm sút, mất mát lợi ích vật chất thực tế hoặc những chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại. Thiệt hại phải là khách quan không được suy diễn, chủ quan.

Do đó, bên vi phạm hợp đồng chỉ phải bồi thường cho bên bị vi phạm nếu hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm đã gây ra thiệt hại thực tế và chỉ phải bồi thường phần thiệt hại thực tế đó. Tuy nhiên, để có cơ sở cho việc bồi thường thiệt hại thì bên bị thiệt hại nhất thiết phải xuất trình được các chứng cứ để chứng minh thiệt hại của mình do bên vi phạm gây ra - đây chính là chứng cứ pháp lý quan trọng để bên gây ra thiệt hại xem xét nếu việc bồi thường thiệt hại được giải quyết thông qua con đường đàm phán, thương lượng.

Nếu như việc bồi thường thiệt hại được giải quyết thông qua con đường Toà án thì bên yêu cầu bồi thường thiệt hại có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Toà án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong một số trường hợp nhất định nhằm mục đích nhận định khách quan, chính xác thiệt hại nhằm ra phán quyết đúng pháp luật, bắt buộc bên vi phạm phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm.

Vấn đề xác định thiệt hại thực tế có vai trò quan trọng bởi đó là cơ sở để ấn định mức bồi thường cũng như hình thức bồi thường cho cả hai trường hợp là bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Xác định thiệt hại thực chất là việc tính toán, ước lượng những tổn thất về vật chất đã xảy ra và trên cơ sở đó ấn định mức bồi thường.

Cơ sở của việc xác định thiệt hại là những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế và cách xác định những thiệt hại đó. Trong hai cơ sở trên thì quy tắc xác định hay còn gọi là cách xác định thiệt hại là phạm trù chủ quan được quy định thành luật, dựa trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhất định, còn thiệt


hại xảy ra là cái tồn tại khách quan. Chính vì vậy, để đảm bảo tốt nhất quyền lợi của người bị thiệt hại thì các quy tắc xác định cần phải tiến gần đến việc tính toán được một cách toàn bộ những thiệt hại xảy ra. Do đó, trong quá trình xác định thiệt hại cần phải xem xét các thiệt hại xảy ra một cách khách quan tránh tình trạng xác định cao hơn so với thiệt hại thực tế, gây thiệt thòi cho bên phải bồi thường hoặc ngược lại không bảo vệ được quyền, lợi ích chính đáng của bên được bồi thường thiệt hại.

2.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế

Mối liên hệ nhân quả là một trong sáu cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ khách quan vốn có của bản thân sự vật. Nó tồn tại ngoài ý muốn của con người, không phụ thuộc vào việc ta có nhận thức ra nó hay không9.

Tuy nhiên, ở góc độ hẹp, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế được hiểu là mối quan hệ giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra, đây là mối quan hệ tất yếu, nội tại. Thiệt hại phát sinh là do chính kết quả trực tiếp, tất yếu của sự vi phạm, không có hành vi vi phạm thì không làm phát sinh thiệt hại. Do vậy, xét về mặt thời gian thì hành vi vi phạm phải xảy ra trước thiệt hại thực tế và trong một khoảng thời gian nhất định.

Trường hợp có hành vi vi phạm của một bên mà bên kia bị thiệt hại nhưng thiệt hại này không phải do hành vi của bên vi phạm gây ra thì ở đây không có mối quan hệ nhân quả, và đương nhiên bên vi phạm không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với phần thiệt hại đó.



9Tập bài giảng Triết học Mác - Lênin, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, tr. 280.


Trên thực tế, muốn áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với bên vi phạm, bên bị vi phạm phải chứng minh được có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm với thiệt hại thực tế đã xảy ra dẫn đến việc bên bị vi phạm phải gánh chịu những thiệt hại nhất định.

2.4. Yếu tố lỗi

Dưới góc độ ngôn ngữ, lỗi tiếng Anh (mistake, fault, error) được hiểu là “Điều sai sót, không nên, không phải trong cách cư xử, trong hành động; khuyết điểm”10 cũng có quan điểm cho rằng lỗi là trạng thái tâm lý của con người có thể làm chủ, nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó11 hoặc lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi của họ12.

Mặc dù vẫn còn có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về yếu tố lỗi nhưng nhìn chung các học giả đều thừa nhận lỗi được biểu hiện dưới hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý. Các học giả còn phân biệt mức độ lỗi trong hình thức lỗi vô ý gồm lỗi vô ý nặng và lỗi vô ý nhẹ13. Trong đó, lỗi cố ý là người có hành vi gây thiệt hại nhận thức rõ hành vi của mình là gây ra thiệt hại, thấy trước thiệt hại của hành vi đó và mong muốn thiệt hại xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho thiệt hại xảy ra14. Lỗi vô ý gây thiệt hại là trường hợp người gây thiệt hại thấy hành vi của mình có thể gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa




10 Từ điển Tiếng việt , Nxb Đà Nẵng 2006, tr, 581.

11 Ban biên tập Toà án nhân dân Tối cao “Về việc bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi” Tạp chí Toà án nhân dân Tối cao số 4/2006, tr. 13.

12 Đinh Văn Qúê - Chánh toà hình sự Toà án nhân dân Tối cao “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người” Tạp chí Toà án nhân dân Tối cao số 10/2004, tr. 14.

13 TS. Phùng Trung Tập, Trường Đại học Luật Hà Nội “Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” Tạp chí Toà án nhân dân Tối cao số 10/2004, tr. 2.

14 Đinh Văn Qúê - Bài đã dẫn, tr. 14.

Xem tất cả 77 trang.

Ngày đăng: 22/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí