Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam - 5

nghiệp trích một phần kinh phí của mình để hỗ trợ cho người lao động khi gặp rủi ro trong trường hợp này.

(2) Điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệpNgười lao động tham gia BHXH khi đáp ứng một trong các điều kiện

được quy định tại Điều 39, Điều 40 Luật Bảo hiểm xã hội 2006 và Điều 19

Nghị định số 152/2006/NĐ-CP thì được hưởng bảo hiểm TNLĐ, BNN. Cụ thể là:

- Bị TNLĐ và bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên.

Các trường hợp được bảo hiểm TNLĐ được quy định tại Điều 19 Nghị định số 152/2006/NĐ-CP, bao gồm:

+ Bị tại nạn tại nơi làm việc và trong thời gian làm việc kể cả trong thời gian nghỉ giải lao, ăn giữa ca, thời gian chuẩn bị và kết thúc công việc.

+ Bị tai nạn ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động.

+ Bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc và trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý. Trong khoảng thời gian hợp lý là khoảng thời gian cần thiết để đến nơi làm việc trước giờ làm việc hoặc trở về sau giờ làm việc. Tuyến đường hợp lý là tuyến đường thường xuyên đi và về từ nơi thường trú hoặc nơi đăng ký tạm trú đến nơi làm việc và ngược lại.

Ngoài ra, theo Thông tư liên tịch số 12/2012/TTLT-BLĐTBXH-BYT thì trường hợp người lao động của các doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam, trong khi thực hiện nhiệm vụ ở nước ngoài do người sử dụng lao động giao như tham dự hội nghị, hội thảo, học tập ngắn hạn, nghiên cứu thực tế mà bị tai nạn thì cũng được coi là TNLĐ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

- Bị bệnh thuộc danh mục BNN được bảo hiểm do Bộ Y tế và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định khi làm nghề, công việc nặng nhọc,

độc hại hoặc trực tiếp tiếp xúc với môi trường độc hại theo danh mục nhà nước quy định và bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên.

Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam - 5

Trường hợp người lao động bị bệnh thuộc danh mục BNN trong thời gian làm việc trong điều kiện lao động bình thường hoặc không tiếp xúc với các chất độc hại có liên quan tới bệnh đó thì cần phải tìm hiểu nguyên nhân và nguồn gốc dẫn tới bệnh. Nếu trước đó người lao động đã từng làm việc trong điều kiện nặng nhọc, độc hại và bệnh của họ chính là hậu quả của thời gian làm việc đó thì cần lưu ý tới thời gian đảm bảo của BNN. Đó là khoảng thời gian nhất định do Nhà nước quy định (tuỳ từng loại và thể bệnh) tính từ ngày người lao động rời khỏi môi trường làm việc có yếu tố độc hại có khả năng gây ra BNN, mà trong khoảng thời gian đó, nếu người lao động bị bệnh (do yếu tố độc hại trong môi trường lao độngtrước đó gây ra) sẽ được tính là BNN và được hưởng bảo hiểm xã hội theo chế độ bảo hiểm BNN. Nếu người lao động bị bệnh khi thời gian đảm bảo đã hết thì chỉ được hưởng bảo hiểm theo chế độ ốm đau. Như vậy, bệnh án, xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền, biên bản xác nhận môi trường có yếu tố độc hại gây BNN của cấp có thẩm quyền hay chứng nhận về thời gian bảo đảm BNN, biên bản giám định y khoa… đều là những giấy tờ cần thiết trong hồ sơ hưởng bảo hiểm của người lao động ở chế độ này.

b. Mức hưởng và thời gian hưởng

Người sử dụng lao động là người thuê lao động, có quyền tổ chức và quản lý quá trình lao động của người lao động, vì vậy hệ quả tất yếu là họ phải chịu trách nhiệm về những rủi ro xảy ra trong quá trình lao động làm ảnh hưởng tới sức khoẻ, tính mạng, đời sống của người lao động, đặc biệt trong trường hợp người lao động bị TNLĐ, BNN. Ngoài việc phải đóng BHXH cho người lao động, người sử dụng lao động còn phải trực tiếp chịu trách nhiệm

về những vụ TNLĐ và BNN xảy ra trong đơn vị mình, trước hết là trách nhiệm đối với người lao động, hoặc gia đình họ, tiếp sau là trách nhiệm đối với Nhà nước, xã hội.

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 107 và Khoản 1 Điều 143 Bộ luật Lao động, người sử dụng lao động phải chịu trách nhiệm sơ cứu, đưa người lao động đi cấp cứu và thanh toán toàn bộ chi phí y tế, tiền lương cho người lao động đến khi điều trị ổn định thương tật; bồi thường hoặc trợ cấp cho người lao động (hoặc gia đình của người đã chết) không thấp hơn mức tối thiểu do Nhà nước quy định; hoàn tất hồ sơ cho người lao động hoặc gia đình của người đã chết hưởng BHXH từ quỹ BHXH theo quy định của pháp luật hoặc bồi thường cho người lao động nếu chưa tham gia BHXH; bố trí công việc khác phù hợp với sức khoẻ và thực hiện đúng nghĩa vụ theo dõi, chăm sóc sức khoẻ theo một chế độ riêng cho người lao động này (nếu họ còn tiếp tục làm việc tại đơn vị).

Trách nhiệm của cơ quan BHXH phát sinh kể từ khi người lao động điều trị ổn định thương tật ra viện. Các loại và mức bảo hiểm TNLĐ, BNN của người lao động từ quỹ BHXH tuỳ thuộc vào hiện trạng sức khoẻ, kết quả giám định y khoa, thời gian tham gia BHXH của họ và phải tính đủ các loại chi phí thiết yếu nhằm bù đắp thiệt hại, tháo gỡ khó khăn và phục vụ cho cuộc sống của người lao động bị TNLĐ, BNN. Cùng một lúc, người lao động có thể được hưởng đồng thời nhiều loại trợ cấp trong chế độ này và có thể được hưởng chế độ bảo hiểm khác nếu đủ điều kiện.

Cụ thể, người lao động có thể được hưởng các loại trợ cấp với các mức tương ứng như sau từ quỹ BHXH:

- Giám định y khoa: việc giới thiệu người lao động đi giám định tại hội đồng giám định y khoa có thẩm quyền và các chi phí có liên quan đều do

Bảo hiểm xã hội thực hiện. Giám định y khoa vừa là quyền lợi của người lao động, vừa là cơ sở để bảo hiểm xã hội thực hiện chi trả các chế độ bảo hiểm tiếp theo cho họ.

Theo Điều 41 Luật BHXH 2006, người lao động được giám định mức suy giảm khả năng lao động sau khi thương tật, bệnh tật đã được điều trị ổn định; sau khi vết thương, bệnh tật tái phát đã được điều trị ổn định. Trường hợp người lao động vừa bị TNLĐ vừa bị BNN, bị TNLĐ, BNN nhiều lần sẽ được giám định tổng hợp mức suy giảm khả năng lao động.

- Trợ cấp thương tật, bệnh tật (gọi chung là trợ cấp thương tật): đây là chế độ chính áp dụng đối với người lao động bị TNLĐ, BNN. Trợ cấp thương tật có thể được thực hiện một lần hoặc hàng tháng tuỳ thuộc mức độ suy giảm khả năng lao động của người lao động. Mục đích của chế độ này là bù đắp một phần thu nhập của người lao động bị giảm do giảm khả năng lao động hoặc thay thế thu nhập do người lao động không thể tiếp tục làm việc. Vì thế, các trường hợp trợ cấp thay thế tiền lương về nguyên tắc ít nhất phải đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người hưởng bảo hiểm. Từ mục đích này, Nhà nước quy định cụ thể các loại và mức trợ cấp thương tật cho người lao động. Hiện nay, Nhà nước thực hiện trợ cấp một lần cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30%. Những người lao động bị suy giảm từ 31% khả năng lao động trở lên được hưởng trợ cấp hàng tháng và mức trợ cấp nhìn chung đảm bảo mức sống tối thiểu trở lên cho các đối tượng này. Trợ cấp thương tật hiện nay cho người lao động gồm hai khoản: trợ cấp theo lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định (phụ thuộc vào tỷ lệ suy giảm khả năng lao động) và trợ cấp theo lương làm căn cứ đóng BHXH của người lao động (phụ thuộc vào thời gian tham gia BHXH của người lao động đó). Cụ thể như sau:

Trợ cấp một lần:

Mức trợ cấp một lần được quy định tại Điều 42 Luật Bảo hiểm xã hội 2006 và được cụ thể hóa tại Điều 21 Nghị định số 152/NĐ-CP, theo đó, người lao động bị TNLĐ, BNN sẽ được hưởng trợ cấp một lần căn cứ tỷ lệ thương tật và số năm đóng BHXH. Mức trợ cấp áp dụng cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% với mức hưởng được tính như sau:

Tính theo tỷ lệ thương tật: người lao động bị suy giảm 5% khả năng lao động thì được hưởng 5 tháng lương tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 0,5 tháng lương tối thiểu chung.

Tính theo số năm đóng BHXH: Người lao động còn được hưởng thêm khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng BHXH, từ 1 năm trở xuống thì được tính bằng 0,5 tháng, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được tính thêm 0,3 tháng tiền lương, tiền công đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.

Trường hợp người lao động đang làm việc bị chết do TNLĐ, BNN hoặc bị chết trong thời gian điều trị lần đầu do TNLĐ, BNN thì thân nhân được trợ cấp 1 lần bằng 36 tháng lương tối thiểu chung. Ngoài ra, thân nhân người lao động tuỳ theo điều kiện về tuổi đời, thu nhập còn được hưởng tiền mai táng bằng 10 tháng lương tối thiều chung và trợ cấp tuất hàng tháng bằng 50% mức lương tối thiểu chung (nếu thân nhân không còn người nuôi dưỡng thì mức hưởng bằng 70% mức lương tối thiểu chung) hoặc trợ cấp tuất 1 lần nếu không còn thân nhân đủ điều kiện hưởng trợ cấp hàng tháng.

Trợ cấp hàng tháng:

Mức trợ cấp một lần được quy định tại Điều 43 Luật Bảo hiểm xã hội 2006 và được cụ thể hóa tại Điều 22 Nghị định số 152/NĐ-CP, theo đó, người lao động bị TNLĐ, BNN sẽ được hưởng trợ cấp một lần căn cứ tỷ lệ thương

tật và số năm đóng BHXH. Mức trợ cấp áp dụng cho người bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên, mức hưởng được tính như sau:

Tính theo tỷ lệ thương tật: người lao động bị suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng mức bằng 30% mức lương tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức lương tối thiểu chung.

Tính theo số năm đóng BHXH: Hàng tháng người lao động còn được hưởng thêm một khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng BHXH, từ 1 năm trở xuống được tính bằng 0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được tính thêm 0,3% mức tiền lương, tiền công đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.

- Các chế độ khác kèm theo chế độ trợ cấp thương tật

Do sức khoẻ bị giảm sút hoặc bị tổn thương chức năng hoạt động của các bộ phận cơ thể… ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống hàng ngày của người lao động, vì vậy cùng với chế độ trợ cấp thương tật, người lao động còn được đảm bảo các điều kiện khác để giải quyết các nhu cầu mới phát sinh. Các chế độ này bao gồm: trang cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt khi người lao động bị tổn thương hoạt động của chân, tay, răng; tai, mắt, cột sống; được trợ cấp phục vụ hàng tháng trong trường hợp người lao động bị tàn phế, không tự phục vụ được cho mình; được bảo hiểm y tế khi nghỉ việc; được giám định và điều chỉnh lại mức trợ cấp thương tật khi bị tái phát (theo Điều 45, 46 Luật BHXH 2006).

Trường hợp người lao động đủ điều kiện hưởng bảo hiểm hưu trí (hàng tháng hoặc một lần) thì đồng thời được hưởng cả hai chế độ (bảo hiểm TNLĐ, BNN và bảo hiểm hưu trí).

- Trợ cấp cho gia đình của người lao động bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

Khi người lao động bị chết, các chi phí hợp lý phát sinh từ việc chôn cất người chết cần phải được bù đắp. Hơn nữa, nguồn thu nhập, nguồn sống của gia đình họ sẽ bị thiếu hụt, gây ra khó khăn lớn cho đời sống chung của gia đình, đặc biệt là đối với những người mà khi sống người lao động có trách nhiệm nuôi dưỡng. Pháp luật về BHXH của Nhà nước ta thời kỳ nào cũng quy định việc trợ cấp bảo hiểm cho gia đình của người lao động trong trường hợp này. Khoản tiền này vừa có ý nghĩa động viên tinh thần vừa bù đắp các chi phí phát sinh và sự thiếu hụt nguồn nuôi dưỡng… cho thân nhân của người lao động.

Hiện nay, Nhà nước quy định trường hợp người lao động bị chết do TNLĐ, BNN (kể cả chết trong thời gian điều trị lần đầu), thân nhân họ sẽ được hưởng chế độ mai táng phí bằng 10 tháng tiền lương tối thiểu (được quy định tại Điều 63 Luật BHXH 2006). Cùng với các chế độ này, thân nhân của người lao động đã chết sẽ được hưởng chế độ tiền tuất một lần hoặc hàng tháng từ quỹ BHXH theo quy định của pháp luật. Chế độ trợ cấp một lần sẽ không áp dụng trong trường hợp người lao động chết sau thời gian điều trị lần đầu, cho dù nguyên nhân là do TNLĐ hoặc BNN. Chế độ tử tuất trong trường hợp này có hay không sẽ tuỳ thuộc vào thời gian tham gia BHXH của người lao động hoặc người lao động hoặc người lao động đó có đang hưởng trợ cấp hàng tháng từ quỹ BHXH hay không.

- Dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau khi điều trị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

Người lao động sau khi điều trị ổn định thương tật do TNLĐ hoặc bệnh tật do BNN mà sức khoẻ còn yếu thì được nghĩ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ. Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ trong một năm tính cả ngày nghỉ lễ, tết, nghỉ hàng tuần, ngày đi và về (nếu nghỉ tại cơ sở tập trung). Số ngày nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ do Ban chấp hành công đoàn cấp cơ

sở và người sử dụng lao động quyết định nhưng không được vượt quá mức tối đa do Nhà nước quy định. Thời gian nghỉ dưỡng sức được xác định trên cơ sở mức suy giảm khả năng lao động quy định tại Điều 24 Nghị định số 152/2006/NĐ-CP như sau:

+ Được nghỉ tối đa 10 ngày đối với người bị suy giảm khả năng lao động với tỷ lệ từ 51% trở lên;

+ Được nghỉ tối đa 7 ngày đối với người bị suy giảm khả năng lao động với tỷ lệ từ 31% đến 50%;

+ Được nghỉ 5 ngày đối với người bị suy giảm khả năng lao động với tỷ lệ từ 15% đến 30%.

Điều 48 Luật Bảo hiểm xã hội 2006 quy định mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ một ngày của người lao động bằng 25% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức tại nhà, bằng 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức tại cơ sở tập trung.

Đối với trường hợp người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mà bị liệt cột sống hoặc mù hai mắt hoặc cụt, liệt hai chi hoặc bị bệnh tâm thần thì ngoài mức hưởng nêu trên, hàng tháng người lao động còn được hưởng trợ cấp phục vụ bằng mức lương tối thiểu chung.

Người lao động bị TNLĐ mà bị tổn thương các chức năng hoạt động của cơ thể thì được cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình theo niên hạn và căn cứ vào tình trạng thương tật, bệnh tật.

- Các quyền lợi khác:

Người lao động được hưởng trợ cấp tai nạn hàng tháng được hưởng các quyền lợi sau:

+ Nếu người lao động không còn làm việc thì được hưởng Bảo hiểm y tế do Quỹ BHXH đảm bảo;

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 15/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí