CHƯƠNG 1.
KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ SỞ HỮU TÀI NGUYÊN RỪNG
Ở VIỆT NAM
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Khái niệm rừng và tài nguyên rừng
1.1.1.1 Khái niệm rừng
Theo tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên Hiệp Quốc ( FAO):
Rừng là một khu vực đất đai có diện tích lớn hơn 0,5 ha với độ che phủ của tán rừng trên 10%, độ cao trung bình tối thiểu của cây phải đạt 5m, rừng bao gồm rừng tự nhiên và rừng trồng1.
Khái niệm này được kết hợp từ các yếu tố như mật độ cây, chiều cao của cây, cách thức sử dụng đất rừng và chức năng sinh thái để đưa ra một khái niệm về rừng thiên về liệt kê các đặc trưng của rừng để dễ dàng xác định một diện tích cây cối có phải là rừng trên thực tế hay không.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 (Luật BVPTR) của Việt Nam thì "Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng
Có thể bạn quan tâm!
- Chế độ sở hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam - 1
- Đặc Trưng Của Chế Độ Sở Hữu Toàn Dân Đối Với Tài Nguyên Rừng Ở Việt Nam
- Hình Thức Sở Hữu Tư Nhân Đối Với Rừng Sản Xuất Là Rừng Trồng
- Thu Hồi Rừng, Chuyển Mục Đích Sử Dụng Rừng 95
Xem toàn bộ 66 trang tài liệu này.
từ 0,1 trở lên.". Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì rừng được xác định dựa theo ba tiêu chí2:
(1) Là một hệ sinh thái với thành phần chính là các cây lâu năm thân gỗ, cau dừa, tre nứa có chiều cao trung bình từ 5m trở lên (trường hợp rừng mới trồng hoặc rừng ngập mặn ven biển độ cao của cây được quy định thấp hơn nhưng phải đảm bảo mật độ 1000 cây/ha trở lên), đủ khả năng cung cấp lâm sản, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học.
(2) Độ tàn che của tán cây (độ che phủ của tán rừng) là thành phần chính của rừng phải từ 0,1 trở lên. Độ che phủ của tán rừng được hiểu là mức độ che kín của tán cây rừng đối với đất rừng, được biểu thị bằng tỷ lệ phần mười giữa diện tích đất rừng bị tán cây rừng che bóng và diện tích đất rừng3.
(3) Diện tích rừng liền khoảnh tối thiểu từ 0,5 ha trở lên hoặc là dải rừng có chiều rộng tối thiểu 20 mét và có từ 3 hàng cây trở lên. Với những hệ sinh thái nông nghiệp, diện tích nuôi trồng thủy sản có cây lâu năm là cây
1 http://www.fao.org/docrep/005/y4171e/y4171e10.htm, truy cập ngày 03/6/2015
2 Điều 3 thông tư số 34/2009/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NNPTNT) ngày 10/6/2009 quy định tiêu chí xác định và phân loại rừng (TT 34/2009/TT-BNNPTNT)
3 Khoản 2 Điều 3 Luật BVPTR
thân gỗ, tre nứa, cau dừa, khu vực có cây cối nhưng không thuộc một trong hai trường hợp kể trên không được coi là rừng mà chỉ là cây phân tán.
Bên cạnh những điểm tương đồng giữa khái niệm rừng của Việt Nam với khái niệm rừng của FAO về quy định độ che phủ của tán rừng đều phải từ 0.1 (10%) trở lên, độ cao trung bình của cây rừng hay diện tích tối thiểu một khu rừng phải đạt được, pháp luật Việt Nam quy định cụ thể hơn về các yếu tố cấu thành rừng (thành phần thực vật chính trong rừng là gì, mật độ cây bao nhiêu, diện tích đất là đất rừng phải liền mảnh…) và bao quát hơn khi xác định những diện tích tuy không đảm bảo điều kiện cơ bản về độ che phủ hay diện tích tối thiểu 0,5 ha nhưng là rừng vì xét đến sự phát triển của chúng trong tương lai (rừng mới trồng, dải cây rừng), đặc trưng sinh học của từng loài thực vật (ví dụ như rừng ngập mặn ven biển thường chỉ có độ cao trung bình 3m). Khái niệm về rừng theo pháp luật Việt Nam không chỉ đưa ra định nghĩa rõ ràng về rừng mà còn là cơ sở để phân biệt rừng với những diện tích có thực vật khác, không phải rừng.
Về phân loại rừng, Luật BVPTR căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu để chia rừng thành 3 loại: rừng phòng hộ (RPH), rừng đặc dụng (RĐD) và rừng sản xuất (RSX). Đồng thời, kết hợp với nguồn gốc hình thành thì ba loại rừng này có thể là rừng tự nhiên hoặc rừng trồng. Theo đó4:
Rừng phòng hộ: là rừng được xây dựng và phát triển cho mục đích bảo vệ và điều tiết nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn đất, hạn chế thiên tai, điều hòa khí hậu, bảo đảm cân bằng sinh thái và an ninh môi trường. RPH bao gồm 4 loại là RPH đầu nguồn; RPH chắn gió, chắn cát bay; RPH chắn sóng, lấn biển; RPH bảo vệ môi trường.
Rừng đặc dụng: được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng, nghiên cứu khoa học, bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh, phục vụ nghỉ ngơi du lịch, kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường. RĐD bao gồm: vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa học.
Rừng sản xuất: là rừng được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh gỗ, các lâm sản ngoài gỗ và kết hợp phòng hộ, bảo vệ môi trường. RSX bao gồm RSX là rừng trồng, RSX là rừng tự nhiên và rừng giống.
Để phục vụ cho công tác điều tra, kiểm kê, thống kê rừng, quy họach bảo vệ và phát triển rừng, quản lý tài nguyên rừng và xây dựng các chương trình, dự án lâm nghiệp ngày 10/6/2009, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thông (Bộ NNPTNT)
4 Điều 4 Luật BVPTR
đã ban hành Thông tư 34/2009/TT-BNNPTNT quy định tiêu chí xác định và phân loại rừng (TT 34/2009/TT-BNNPTNT). Theo đó, ngoài tiêu chí mục đích sử dụng, rừng còn có thể được phân loại căn cứ vào nguồn gốc hình thành, trữ lượng, loài cây hoặc điều kiện lập địa5. Theo tiêu chí điều kiện lập địa, rừng ở nước ta bao gồm rừng núi đất, rừng núi đá, rừng ngập nước, rừng trên đất cát. Theo tiêu chí loài cây có rừng gỗ, rừng tre nứa, rừng cau dừa, rừng hỗn giao gỗ và tre nứa. Dựa vào trữ
lượng, phân biệt được đâu là rừng rất giàu, rừng giàu, rừng trung bình, rừng nghèo, rừng chưa có trữ lượng. Nếu căn cứ vào nguồn gốc hình thành, rừng được chia làm hai loại6:
Rừng tự nhiên: là rừng có sẵn trong tự nhiên hoặc phục hồi bằng tái sinh tự nhiên.
Rừng trồng: là rừng được hình thành do con người trồng.
Theo số liệu thống kê được công bố gần đây nhất cho thấy7, tính đến hết năm 2013 Việt Nam có khoảng 13,95 triệu ha rừng. Trong đó, rừng tự nhiên chiếm khoảng 10,4 triệu ha, còn lại là rừng trồng (3,55 triệu ha). Nếu phân theo chức năng, khoảng 2,1 triệu ha là diện tích RĐD, khoảng 4,67 triệu ha là RPH và RSX chiếm diện tích 7,18 triệu ha.Trong tổng số 10,4 triệu ha rừng tự nhiên, RPH và RĐD chiếm 57,6%, còn lại (42,4%) là RSX. Đến nay, cả nước có khoảng 3,55 triệu ha rừng trồng, trong đó diện tích rừng trồng là RSX khoảng 2,65 triệu ha (74,65% trong tổng diện tích rừng trồng); phần còn lại (25,35%) là diện tích rừng trồng là RPH và RĐD. Trong những năm gần đây, diện tích rừng trồng tăng tương đối nhanh, với tốc độ khoảng 150.000 – 200.000 ha/năm8. Điều này là cơ sở để tăng trữ lượng và chất lượng rừng trong tương lai cho nước ta.
Mặc dù có nhiều tiêu chí để phân chia rừng nhưng khi nghiên cứu về chế độ sở hữu đối với tài nguyên rừng, chúng ta quan tâm tới các loại rừng được phân loại căn cứ vào hai tiêu chí, đó là nguồn gốc hình thành và mục đích sử dụng. Bởi lẽ, các hoạt động quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng của Nhà nước như xác lập các khu rừng, lập quy hoạch, kế hoạch phát triển rừng, giao rừng, cho thuê rừng đều dựa trên kết quả phân loại rừng là RPH, RĐD hay RSX. Nhà nước quyết định giao rừng, cho thuê rừng cho chủ thể phù hợp cũng căn cứ vào mục đích sử dụng của từng loại rừng, hơn nữa là cơ sở để xem xét công nhận quyền sử dụng rừng và quyền sở hữu RSX là rừng trồng. Ngoài ra, phân loại rừng thành RPH, RĐD, RSX sẽ thuận tiện
5 Chương II TT 34/2009/TT-BNNPTNT
6 Điều 5 TT 34/2009/TT-BNNPTNT
7 Quyết định 3322/QĐ-BNN-TCLN của Bộ trưởng Bộ NNPTNT ngày 28 tháng 7 năm 2014 công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2013 (QĐ 3322/QĐ-BNN-TCLN)
8 Tô Xuân Phúc & Trần Hữu nghị (2014), Báo cáo giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao, Huế, tr.12
cho việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của từng loại chủ rừng đối với mỗi loại rừng nhất định. Có thể thấy nguồn gốc hình thành và mục đích sử dụng của từng loại rừng quyết định hình thức sở hữu đối với khu rừng đó có thể là hình thức sở hữu nào và phương thức thực hiện các quyền sở hữu của chủ sở hữu rừng.
1.1.1.2 Khái niệm tài nguyên rừng
Tài nguyên rừng là một loại tài nguyên thiên nhiên hữu hạn có khả năng tái tạo được bao gồm thực vật rừng, động vật rừng và những yếu tố tự nhiên có liên quan đến rừng (cảnh quan rừng, vi sinh vật, thổ nhưỡng…)9.
Như đã đề cập, tài nguyên rừng được cấu thành từ nhiều thành phần tự nhiên vô cùng phong phú, đa dạng. Trong đó có hàng triệu loài động vật, thực vật và vi sinh vật, mà đời sống của chúng đều liên quan chặt chẽ với nhau, tạo thành quần xã đa dạng sinh học. Không giống như không khí, gió hay năng lượng mặt trời là những nguồn tài nguyên vô hạn, tài nguyên rừng có giới hạn nhất định về trữ lượng, sẽ giảm dần cùng với hoạt động khai thác, sử dụng của con người. Tuy nhiên, rừng lại là loại tài nguyên có thể tái tạo, phục hồi, thậm chí nâng cao chất lượng và trữ lượng thông qua quá trình tái sinh tự nhiên hoặc do con người gây trồng lại nếu như nhận được sự quản lý và bảo tồn hợp lý.
Như chúng ta đã biết, tài nguyên rừng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với cuộc sống con người. Trước hết, hệ sinh thái rừng cung cấp lâm sản (gỗ và lâm sản ngoài gỗ) phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư trong xã hội; là nguồn nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, các ngành xây dựng cơ bản; cung cấp dược liệu quý phục vụ nhu cầu chữa bệnh và nâng cao sức khỏe cho con người; cung cấp lương thực, nguyên liệu chế biến thực phẩm.... Tài nguyên rừng, đặc biệt là rừng, góp phần điều hòa dòng chảy, chống xói mòn rửa trôi thoái hóa đất, chống bồi đắp sông ngòi, hồ đập, giảm thiểu lũ lụt, hạn chế hạn hán, giữ gìn được nguồn thủy năng lớn cho các nhà máy thủy điện, làm sạch không khí, điều hòa khí hậu. Ngoài ra, rừng còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học, đặc biệt là nơi dự trữ sinh quyển bảo tồn các nguồn gen quý hiếm. Như vậy, tài nguyên rừng có giá trị to lớn với sự phát triển kinh tế mỗi quốc gia, góp phần cân bằng sinh thái và bảo vệ môi trường.
So với nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có diện tích rừng lớn, xếp thứ 45 trên 192 quốc gia và vùng lãnh thổ10. Do đó, tiềm năng khai thác và phát triển nguồn tài nguyên rừng ở nước ta là rất lớn. Sau các chiến
9 Nguyễn Thanh Huyền (2013), Pháp luật về quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr.14
10 Số liệu tính toán sử dụng thông tin từ The World Factbook 2011, https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/vm.html, truy cập ngày 8/7/2015
lược phát triển lâm nghiệp qua các giai đoạn, hiện nay độ che phủ rừng đã đạt 40%11, trữ lượng gỗ - một trong các nguồn tài nguyên rừng quan trọng hàng đầu là 813,3 triệu m3 (rừng tự nhiên chiếm 94%, rừng trồng 6%) và khoảng 8,5 tỷ cây tre, nứa. Trữ lượng gỗ bình quân của rừng tự nhiên là 76,5 m3/ha và rừng trồng là 40,6 m3/ha. Gỗ tập trung chủ yếu ở 3 vùng là Tây Nguyên chiếm 33,8%, Bắc Trung Bộ 23% và Nam Trung Bộ 17,4% tổng trữ lượng12. Về đa dạng sinh học của rừng, Việt
Nam được coi là một trong những nước thuộc vùng Đông nam Á giàu về đa dạng sinh học với hệ thực vật rừng phong phú về chủng loại. Cho đến nay đã thống kê được 10.484 loài thực vật bậc cao có mạch, khoảng 800 loài rêu và 600 loài nấm. Theo dự đoán của các nhà thực vật học số loài thực vật bậc cao có mạch ít nhất sẽ lên đến 12000 loài, trong đó có khoảng 2300 loài đã được người dân dùng làm nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thức ăn cho gia súc, lấy gỗ, tinh dầu và nhiều nguyên vật liệu khác. Cũng như thực vật, giới động vật rừng Việt Nam không những giàu về thành phần loài mà còn có nhiều nét độc đáo, đại diện cho vùng Đông Nam Á với 275 loài thú, 828 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài ếch nhái, trong đó hơn 100 loài và phân loài chim và 78 loài và phân loài thú là đặc hữu có
giá trị thực tiễn cao13.
1.1.2 Khái niệm chủ rừng
Chủ rừng là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng, giao đất để trồng rừng, cho thuê đất để trồng rừng, công nhận quyền sử dụng rừng, công nhận quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng; nhận chuyển nhượng rừng từ chủ rừng khác14.
Theo quy định của pháp luật, chủ rừng bao gồm 7 nhóm đối tượng, đó là15:
Ban quản lý RPH, Ban quản lý RĐD
Hộ gia đình, cá nhân trong nước
Tổ chức kinh tế
Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư tại Việt Nam
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư tại Việt Nam
Đơn vị vũ trang nhân dân
Tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đào tạo, dạy nghề về lâm nghiệp.
11 QĐ 3322/QĐ-BNN-TCLN
12 Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020 (QĐ 18/2007/QĐ-TTg )
13 Phùng Mỹ Trung, "Bạn biết gì về đa dạng sinh học của rừng Việt Nam?", http://www.vncreatures.net/event06.php, truy cập ngày 8/7/2015
14 Khoản 4 Điều 3 Luật BVPTR
15 Điều 5 Luật BVPTR
Có thể thấy Nhà nước khuyến khích các tổ chức kinh tế, hộ gia đình và cá nhân tiếp cận khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên rừng khi quy định các nhóm chủ rừng bao gồm nhiều thành phần trong xã hội, không hạn chế chủ rừng trong nước hay nước ngoài và không quy định các cơ quan quản lý Nhà nước là một trong những đối tượng chủ rừng.
Về nguyên tắc, Nhà nước (đại diện cho toàn dân) sẽ đóng vai trò là chủ sở hữu tuyệt đối đối với rừng. Bên cạnh đó còn có các đối tượng được Nhà nước công nhận quyền sở hữu đối với RSX là rừng trồng – chủ sở hữu tương đối đối với rừng. Theo đó, khái niệm “chủ rừng” quy định tại Điều 3 Luật BVPRT bao gồm cả hai đối tượng là người có quyền sở hữu tương đối đối với RSX là rừng trồng và người không có quyền sở hữu rừng mà chỉ được Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng, giao đất để trồng rừng, cho thuê đất để trồng rừng; nhận chuyển nhượng quyền sử dụng rừng từ chủ rừng khác. Như vậy khái niệm “chủ rừng” và “chủ sở hữu rừng” không đồng nhất với nhau.
Mỗi loại chủ rừng có những đặc điểm riêng, quyền lợi và nghĩa vụ riêng phụ thuộc vào loại rừng mà họ được giao hoặc được thuê theo quy định của Luật BVPTR. Điều kiện để trở thành chủ rừng đối với mỗi loại đối tượng chủ thể cũng có nhiều điểm không giống nhau nhưng trước hết họ phải thuộc một trong các nhóm đối tượng được nêu như trên (trừ Ban quản lý RPH, RĐD được thành lập sau khi giao RPH, RĐD); tiếp theo họ phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét, cấp quyết định giao rừng, cho thuê rừng, giao đất, cho thuê đất để trồng rừng căn cứ trên dự án đầu tư về lâm nghiệp được phê duyệt theo pháp luật về đầu tư (đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước ngoài), khu vực sinh sống tại địa phương có rừng (thường áp dụng đối với hộ gia đình, cá nhân) hoặc nhu cầu sử dụng vào mục đích kinh doanh (đối với tổ chức kinh tế), nghiên cứu (đối với tổ chức nghiên cứu khoa học), lí do an ninh – quốc phòng (đối với đơn vị vũ trang nhân dân). Khi hoàn thành các thủ tục cần thiết họ sẽ trở thành chủ rừng và được công nhận quyền sử dụng rừng hoặc quyền sở hữu RSX là rừng trồng.
1.2 Cơ sở xác lập chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam
1.2.1 Cơ sở lý luận
Rừng là tài nguyên quý báu của mỗi quốc gia nói riêng và của thế giới nói chung, là bộ phận quan trọng của môi trường sinh thái, có giá trị to lớn, đặc biệt đối với nền kinh tế. Rừng chứa đựng ít nhất 80% đa dạng sinh học của thế giới, đóng góp vào đời sống của hơn 1,6 tỷ người. Rừng và các lâm sản từ rừng là một nguồn tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm chính thức và không chính thức cho khoảng 50 triệu người. Giá trị sản phẩm rừng được giao dịch trên toàn cầu đạt 270
tỷ đôla Mỹ. Trong số đó, rừng của các nước đang phát triển chiếm trên 20%16. Với một đất nước nhiều đồi núi như Việt Nam, vai trò của rừng hiện diện không chỉ trong lĩnh vực kinh tế (ngành lâm nghiệp đóng góp 5,9% vào cơ cấu GDP năm 2013 và có khuynh hướng ngày càng tăng17) mà còn trong cuộc sống hàng ngày, đời sống văn hóa, tâm linh. Không giống như tài nguyên khoáng sản, rừng là nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo được đồng thời cũng là đối tượng thường xuyên chịu tác động tiêu cực từ phía con người. Theo kết quả điều tra của Quỹ Quốc tế Bảo vệ thiên nhiên (WWF), mỗi năm có khoảng 119,6 triệu ha đến 149 triệu ha rừng trên toàn thế giới bị tàn phá18, nếu làm một phép tính nhỏ với 4 tỉ ha rừng toàn cầu hiện nay thì chỉ trong vòng chưa đầy 40 năm nữa rừng sẽ hoàn toàn bị xóa sổ và kéo theo đó là hàng loạt các hệ lụy biến đổi khí hậu, ô nhiễm, nghèo đói, dịch bệnh. Hơn nữa, chúng ta đều biết, tốc độ khôi phục rừng luôn luôn chậm hơn tốc độ suy thoái rừng, một khi khai thác cạn kiệt nguồn rừng tự nhiên thì cơ hội hồi phục hầu như không có.
Để quản lý, bảo vệ và phát triển tốt nguồn tài nguyên rừng các quốc gia đặc biệt quan tâm đến vấn đề sở hữu đối với rừng được thể hiện dưới các văn bản pháp luật và Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Hiện nay, trên thế giới tồn tại hai chế độ sở hữu rừng: công hữu (sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể) và tư hữu (sở hữu tư nhân) dưới nhiều mô hình sở hữu khác nhau. Mô hình phổ biến nhất là thừa nhận nhiều hình thức sở hữu ở các quốc gia có diện tích rừng lớn hàng đầu thế giới như Mỹ, Canada, Bazil, Argentina, Trung Quốc, Australia, Ấn độ, Việt Nam… đều quy định rừng thuộc sở hữu Nhà nước và tư nhân. Ví dụ, Mỹ có 56,3% diện tích rừng thuộc sở hữu tư nhân, Thụy Điển chỉ có 20,2% rừng thuộc sở hữu Nhà nước,… Bên cạnh đó là mô hình chỉ thừa nhận hình thức sở hữu Nhà nước đối với rừng với ý nghĩa là hình thức sở hữu duy nhất như ở Liên bang Nga, Indonesia, Myanmar, Cộng hòa
Trung Phi19.
Là một quốc gia nằm trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam công nhận tài nguyên thiên nhiên, trong đó có tài nguyên rừng là nguồn tư liệu sản xuất thuộc sở hữu chung của toàn xã hội. Chủ nghĩa Mác- xít đã chỉ ra mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội chính là xóa bỏ chế độ tư hữu và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, ai cũng được hưởng ngang bằng như nhau, cùng với đó là
16https://openknowledge.worldbank.org/bitstream/handle/10986/6455/446400PUB0Fore101OFFICIAL
0USE0ONLY1.pdf?sequence=1, truy cập ngày 5/6/2015
17 Đỗ Hương, "GDP ngành lâm nghiệp có thể đạt 6%", http://baodientu.chinhphu.vn/Hoat-dong-Bo- nganh/GDP-nganh-Lam-nghiep-co-the-dat-6/214260.vgp, truy cập ngày 5/6/2015
18 https://www.worldwildlife.org/threats/deforestation, truy cập ngày 6/6/2015.
19 Phụ lục 2 - Thống kê số liệu sở hữu rừng theo hai hình thức của 24 trên 30 quốc gia có diện tích rừng lớn nhất trên thế giới - Andy White & Alejandra Martin (2002), Who owns the world's forest?- Forest tenure and public forests in transition, USA, pp.5 (Phụ lục 2)
khả năng điều khiển xã hội theo một kế hoạch chung20. Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên sự học tập và vận dụng sáng tạo nền tảng học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin, do đó việc xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng là phù hợp về phương diện lý luận. Trải qua một quá trình phát triển lâu dài, đến giai đoạn hiện nay, chế độ sở hữu toàn dân ở nước ta nói chung vẫn khẳng định được xu thế tất yếu của nó trong sự nghiệp hoàn thiện một nhà nước của dân, do dân, vì dân với một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, đòi hỏi phải dựa trên nền tảng của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất bao gồm chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng.
Tài nguyên rừng cũng như các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác, dưới dạng hữu hình hoặc vô hình, như tài nguyên nước, đất đai, khoáng sản, không khí, các di tích văn hóa, lịch sử... là sở hữu chung của toàn dân được tạo dựng qua nhiều thế hệ. Vì vậy, xác lập chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng là khẳng định quyền của mỗi công dân đối với việc định đoạt, khai thác, sử dụng, phát triển và bảo vệ tài nguyên rừng theo cơ chế dân chủ; góp phần bảo đảm cho các quan hệ trong xã hội được vận hành trên nền tảng của quyền sở hữu chung, song dưới những hình thức sở hữu cụ thể được thể chế hóa bằng luật pháp, chính sách của Nhà nước. Chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng còn tạo điều kiện để các cộng đồng dân cư tham gia định đoạt, khai thác, sử dụng và hưởng lợi từ rừng, đồng thời bảo đảm cho mọi người dân giám sát việc quản lý, quy hoạch, khai thác và phát triển tài nguyên của chính quyền các cấp.
Tóm lại, xuất phát từ tầm quan trọng của tài nguyên rừng đối với các lĩnh vực đời sống xã hội của mỗi quốc gia; xuất phát từ đặc trưng chính trị, kinh tế của một đất nước xã hội chủ nghĩa với tôn chỉ mọi của cải đều thuộc về nhân dân, mọi cá nhân đều có quyền tiếp cận với các tư liệu sản xuất một cách bình đẳng thì chế độ sở hữu toàn dân là một yêu cầu bắt buộc, tất yếu phát sinh.
1.2.2 Cơ sở pháp lý
Chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng được quy định trong đạo luật tối cao của Nhà nước Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư,
20 Đỗ Thế Tùng, "Quan điểm cơ bản của C. Mác về sở hữu và việc vận dụng vào các văn kiện Đại hội XI của Đảng", http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Quan-triet-thuc-hien-nghi-quyet-dai-hoi-dang- XI/Noi-dung-co-ban-van-kien/2011/12442/Quan-diem-co-ban-cua-C-Mac-ve-so-huu-va-viec.aspx, truy cập ngày 5/6/2015.