Luật phá sản Việt Nam năm 2004 - thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội và phương hướng hoàn thiện - 2

từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm đều theo kế hoạch của Nhà nước và cũng không có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Lúc bấy giờ, nếu doanh nghiệp kinh doanh có lãi thì nộp vào ngân sách nhà nước, còn ngược lại nếu lỗ thì được Nhà nước bù lỗ. Các xí nghiệp, hợp tác xã thời kỳ này hoạt động kém hiệu qủa, lãi giả, lỗ thật, nợ nần chồng chất. Nhà nước phải giúp đỡ các doanh nghiệp này bằng cách hoãn nợ, xoá nợ hoặc dùng các giải pháp mang tính hành chính như giải thể, sáp nhập… Vì vậy, doanh nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế bao cấp không bị mất khả năng thanh toán và do đó hiện tượng phá sản cũng không xảy ra.

Trong nền kinh tế thị trường, phá sản là một hiện tượng kinh tế-xã hội tồn tại khách quan. Tính tất yếu khách quan của hiện tượng phá sản được lý giải bởi các nguyên nhân sau:

Thứ nhất, mặc dù có đời sống ngắn dài khác nhau nhưng doanh nghiệp luôn có một vòng đời nhất định: khởi nghiệp, tăng trưởng, phồn vinh và suy thoái. Cũng giống như một cơ thể sống, hàng triệu tế bào liên tục được sinh ra và chết đi. Và trong nền kinh tế thị trường hàng chục triệu doanh nghiệp được sinh ra, và trải qua nhiều giai đoạn cũng đến lúc tàn lụi, đó là lúc doanh nghiệp phá sản. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh tồn của sự vật, hiện tượng.

Thứ hai, nền kinh tế thị trường là nơi diễn ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà kinh doanh. Những doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển phải mạnh và phải đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải chủ động, linh hoạt nắm bắt được các quy luật kinh tế và chiếm lĩnh thị trường. Và dĩ nhiên các công ty nhỏ, không đủ sức cạnh tranh sẽ lâm vào tình trạng phá sản.

Một doanh nghiệp phá sản có thể do nhiều nguyên nhân, cũng có thể do nguyên nhân chủ quan hoặc nguyên nhân khách quan tác động. Nguyên nhân khách quan như khủng hoảng kinh tế, thiên tai, động đất, hay sự xuất hiện của đối thủ cạnh tranh…Ngoài ra, nguyên nhân chủ quan như năng lực quản lý, lãnh đạo công ty, chiến lược kinh doanh,…nhiều khi cũng là nguyên nhân của các vụ phá sản doanh nghiệp.

Phá sản bao giờ cũng kéo theo những hệ quả kinh tế-xã hội nhất định. Ví dụ, sự phá sản của một bộ phận lớn doanh nghiệp thường gây ra những xáo trộn, ảnh hưởng xấu đến việc sản xuất, thu nhập của một bộ phận lớn người lao động. Song sự tác động của phá sản không phải bao giờ cũng chỉ có ý nghĩa tiêu cực. Sinh- Tử, Thành lập- Phá sản là những quy luật của cuộc sống doanh nghiệp và thị trường. Một trong những quy luật cơ bản của triết học là quy luật phủ định của phủ định, phá sản cũng chính là sự phủ định cần thiết để kinh tế có bước phát triển cao hơn.

Tóm lại, nhìn từ góc độ kinh tế, phá sản là một thuật ngữ chỉ tình trạng làm ăn thua lỗ, quẫn bách đến mức không thể trả được các món nợ dù có bán hết mọi tài sản hiện có. Phá sản là một hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường, nó hiện hữu như một sản phẩm của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên của nền kinh tế thị trường.

1.2 Phá sản theo cách tiếp cận từ góc độ pháp luật


Phá sản đã có từ lâu, nhưng với tư cách là một hiện tượng phổ biến thì nó chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế này, cùng với các quyền cơ bản khác của công dân, quyền tự do kinh doanh đã rất được Nhà nước tôn trong, đề cao và bảo vệ. Với tư cách là một quyền cơ bản của công dân, quyền tự do kinh doanh có nội hàm rất rộng, bao gồm nhiều bộ phận cấu thành như quyền tự do thành lập doanh nghiệp; quyền tự do quyết định quy mô kinh doanh; quyền tự do lựa chọn ngành nghề, mặt hàng kinh doanh; quyền tự do định đoạt các vấn đề phát sinh trong khi hành nghề; quyền tự do thiết lập các quan hệ kinh tế; quyền tự do lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp; quyền tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Như vậy, tự do cạnh tranh như một bộ phận cấu thành rất quan trọng của quyền tự do kinh doanh đã tạo tiền đề pháp lý để các doanh nghiệp tham gia vào các cuộc chiến với nhau nhằm giành giật thị trường, khách hàng, lợi nhuận. Cũng như mọi cuộc chiến khác, cuộc chiến giữa các nhà kinh doanh cũng mang lại những hậu quả nhất định cho bên thua cuộc: Phá sản. Xét trên quan điểm của pháp luật mà nói thì Phá sản cũng là một quyền của doanh nghiệp và đã là quyền thì được pháp luật bảo vệ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.

Thêm vào đó, bên cạnh những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả thì luôn có một bộ phận không nhỏ những doanh nghiệp do làm ăn kém hiệu quả, nợ nần chồng chất, không thể thanh toán được các nghĩa vụ tài chính đến hạn nên buộc phải chấm dứt sự tồn tại của mình và rút khỏi thị trường. Trong điều kiện như vậy, một vấn đề đặt ra mà Nhà nước nào cũng phải quan tâm giải quyết là làm sao tạo điều kiện để doanh nghiệp con nợ này rút khỏi thương trường một cách êm thấm, có trật tự và ít gây ra hậu quả xấu cho các chủ thể có liên quan nói riêng và cho xã hội nói chung. Muốn thực hiện được các mục tiêu này thì Nhà nước không thể đứng ngoài cuộc mà phải can thiệp bằng cách ban hành pháp luật để xử lý một loạt các vấn đề liên quan đến việc doanh nghiệp mắc nợ. Ví dụ, Nhà nước phải quy định khi nào và với điều kiện gì thì một doanh nghiệp con nợ bị coi là đã lâm vào tình trạng phá sản; ai có quyền làm đơn yêu cầu việc giải quyết phá sản; cơ quan nào trong bộ máy nhà nước có nghĩa vụ giải quyết việc phá sản; thủ tục Toà án thụ lý và giải quyết vụ phá sản; cơ chế quản lý tài sản của con nợ lâm vào tình trạng phá sản; thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn của thiết chế thực hiện việc quản lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản; tài sản phá sản gồm những gì; khi giải quyết phá sản thì có những tài sản nào của con nợ không được đem chia cho các chủ nợ; thứ tự ưu tiên thanh toán từ tài sản phá sản; con nợ có phải tiếp tục trả cho các chủ nợ các khoản nợ còn thiếu chưa được trả hay không, v.v … Tất cả những vấn đề đó cần phải được Nhà nước thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật mà giải quyết một cách thấu đáo, hợp tình, hợp lý. Tổng hợp những văn bản pháp luật này tạo thành một lĩnh vực pháp luật được gọi là pháp luật về phá sản mà xương sống của nó là Luật Phá sản. Tóm lại, vì có phá sản nên phải có pháp luật về phá sản và pháp luật về phá sản là tổng thể các văn bản do Nhà nước ban hành, trong đó quy định về dấu hiệu của tình trạng phá sản; điều kiện áp dụng các thủ tục phá sản (thủ tục phục hồi, thủ tục thanh lý); địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia tố tụng phá sản; trình tự tiến hành việc giải quyết phá sản; thứ tự ưu tiên thanh toán từ tài sản phá sản và các vấn đề khác có liên quan đến việc giải quyết một vụ phá sản cụ thể.

Nói cách khác từ góc độ pháp luật, khi một thương gia, một doanh nghiệp bị phá sản thì theo quy định của pháp luật Toà án sẽ tuyên bố thương gia, doanh nghiệp đó

Luật phá sản Việt Nam năm 2004 - thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội và phương hướng hoàn thiện - 2

bị phá sản. Tuyên bố phá sản là một thủ tục pháp lý bắt buộc với những quy trình, những bước cụ thể đã được pháp luật ấn định. Với cách tiếp cận này “tuyên bố phá sản là thủ tục thanh toán tài sản của con nợ bị phá sản để trang trải cho các chủ nợ bị liên quan2. Do đó, về mặt pháp lý, khi một doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, hàng loạt các vấn đề pháp lý sẽ phát sinh và kéo theo những hậu quả pháp lý khác nhau cho những người liên quan.‌

2. Sự tác động của phá sản


Phá sản là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Nó là hiện tượng kéo theo những hệ quả kinh tế xã hội nhất định và tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội và pháp luật.

2.1. Về mặt tiêu cực


Phá sản thường gây ra những xáo trộn, ảnh hưởng đến việc phát triển sản xuất, ổn định đời sống, đến việc làm và thu nhập của người lao động.

Nhìn nhận một cách tổng quát từ các nước có nền kinh tế phát triển đến các nước chậm phát triển thì vấn đề nạn thất nghiệp của người lao động là một vấn đề nổi cộm được các quốc gia quan tâm và tìm cách hạn chế. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp nhưng không có nguyên nhân nào khiến số người đang lao động bị rơi vào tình trạng thất nghiệp nhiều và nhanh chóng như nguyên nhân phá sản. Đối với bản thân người lao động, phá sản doanh nghiệp làm cho họ mất việc làm, mất thu nhập ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống, miếng cơm manh áo của chính bản thân và gia đình người lao động. Vì vậy, để khắc phục tình trạng này các quốc gia cần có những biện pháp tích cực để hạn chế những ảnh hưởng xấu của phá sản doanh nghiệp đến đời sống người lao động như bồi thường thiệt hại cho người thất nghiệp, trả lương bảo hiểm, giúp họ tìm công việc khác…

Bên cạnh những tác động trên, phá sản còn có nhiều tác động xấu đến sự phát triển kinh tế. Khi một doanh nghiệp bị phá sản thì doanh nghiệp khác là bạn hàng của doanh nghiệp cũng phải chịu ảnh hưởng theo kiểu dây chuyền- người không

2 GS. TS. Nguyễn Thị Mơ, Hoàng Ngọc Thiết (2005), Giáo trình Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại, Nhà xuất bản Giáo dục, tr 115.

bán được hàng kẻ không cung cấp được sản phẩm (nếu doanh nghiệp bị phá sản trước đây mua sản phẩm của mình) hoặc không có nguyên vật liệu cho sản xuất ( nếu doanh nghiệp bị phá sản là doanh nghiệp bán nguyên vật liệu cho họ)… Thêm vào đó chủ nợ của doanh nghiệp bị phá sản không đòi được nợ dẫn đến thiếu vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc trang trải cho các khoản nợ mà họ vay từ chủ nợ khác. Đặc biệt nếu doanh nghiệp bị phá sản là một doanh nghiệp lớn thì sự tác động của nó tới nền kinh tế là rất tồi tệ.

Nói đến tác động tiêu cực của phá sản phải nói đến hai vụ phá sản điển hình trong lĩnh vực tài chính, một của Nhật Bản, một của Mỹ:

Thứ nhất là trường hợp Ngân hàng SFCG (Nhật Bản) đệ đơn xin phá sản ngày 23/2/2009. Ngân hàng SFCG là ngân hàng chuyên cung cấp vốn vay cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản. Đây là vụ phá sản lớn nhất ở Nhật kể từ tháng 3/2002 sau vụ sụp đổ của nhà thầu xây dựng Sato Kogyo với số nợ 450 tỷ Yên. Ngân hàng đang phải chịu một khoản nợ là 338 tỷ Yên, và phải đi vay nợ rất nhiều từ các ngân hàng ngoại quốc trong đó có đại gia Citigroup. Tính tới 31/7/2008 SFCG nợ Citigroup 31 tỷ Yên. Sự phá sản Ngân hàng SFCG cũng đồng nghĩa với việc 109 chi nhánh bị đóng cửa và 1.528 nhân viên bị mất việc3.

Thứ hai là vụ phá sản của Ngân hàng Lehman Brothers của Mỹ đã làm chấn động thị trường toàn cầu. Lehman Brothers (thành lập năm 1850 bởi ba anh em Henry, Emanuel và Mayer Lehman người Do Thái từ Đức di cư sang) là một tập đoàn chứng khoán và tập đoàn ngân hàng đầu tư lớn thứ 4 của Hoa Kỳ. Lĩnh vực chính của tập đoàn là ngân hàng đầu tư, buôn bán cổ phiếu và trái phiếu, nghiên cứu thị trường, quản lý đầu tư, và ngân hàng tư nhân. Tập đoàn đặt trụ sở chính ở Thành phố New York, và hai trụ sở khác ở London và Tokyo, cũng như nhiều văn phòng đại diện khắp thế giới. Ngày 15 tháng 9 năm 2008, tập đoàn tuyên bố phá sản với khoản nợ 613 tỷ đôla Mỹ sau khi không có công ty nào chấp nhận mua lại. Đây là vụ phá sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Nguồn gốc của vụ phá sản này



3 Website của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam: http://www.vnba.org.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=6186&Itemid=31

là từ cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp. Những năm đầu của thập niên 2000, BNC Mortgage - một công ty con của Lehman Brothers - đã tích cực cho vay thứ cấp đối với các dự án nhà ở. Cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp đã làm công ty này thua lỗ nặng. Lehman Brothers đã quyết định đóng cửa công ty con này của mình vào tháng 8 năm 2007. Tuy nhiên không chỉ riêng BNC Mortgage mà cả tập đoàn Lehman Brother đều tích cực tham gia cho vay nhà ở thứ cấp. Việc chứng khoán hóa các khoản cho vay không gặp thuận lợi bởi lãi suất không hấp dẫn. Đến năm 2008, công ty lỗ nặng chưa từng thấy. Kết quả là riêng trong nửa đầu năm 2008, cổ phiếu của Lehman Brothers mất giá tới 70%. Lehman Brothers phá sản đồng nghĩa với việc có khoảng 26.200 nhân viên bị mất việc. Nghiêm trọng hơn là tác động của nó tới thị trường chứng khoán toàn cầu. Ngay sau khi có tin Lehman Brothers phá sản, các thị thường chứng khoán đều đồng loạt giảm giá: chỉ số Down Jones Mỹ sụt giảm 2,6%; chỉ số FTSE tại thị trường chứng khoán London giảm 3%; các thị trường chứng khoán Pháp và Đức cũng giảm hơn 3%; chỉ số Nikkei của Nhật đã giảm tới 4,7%; đặc biệt là thị trường Nga đã phải tạm ngừng dao dịch sau khi chỉ số giảm tới 16% 4. Chỉ số chứng khoán giảm mạnh đe doạ đến sự sụp đổ của hàng loạt các công ty khác và đẩy hàng nghìn người trên toàn thế giới vào tình trạng thất nghiệp.

2.2. Về mặt tích cực


Dưới một cách nhìn khác, phá sản cũng đem lại những ảnh hưởng tích cực đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội.

Xét về mặt kinh tế thì phá sản là một giải pháp hữu hiệu để “cơ cấu lại” nền kinh tế, có thể ví phá sản như dọn vườn, dọn sạch cỏ dại để cây trồng phát triển. Phá sản góp phần hình thành, duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp còn đủ sức đứng vững trong điều kiện cạnh tranh nghiệt ngã. Phá sản giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Phá sản góp phần loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả ra khỏi nền kinh tế và giữ lại những doanh nghiệp mà ở chúng sức cạnh tranh tốt hơn, làm ăn có lãi hơn. Thực tế đã


4 http://www.bbc.co.uk/vietnamese/worldnews/story/2008/09/080916_lehman_bankruptcy.shtml

chứng minh rằng, trong nền kinh tế thị trường chỉ tồn tại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, sự cạnh tranh bao giờ cũng đem lại kết cục nghiệt ngã cho các doanh nghiệp yếu hơn nhưng nó lại là quy luật muôn thuở của nền kinh tế thị trường mà ở đó lợi nhuận là trung tâm còn cạnh tranh là động lực.

Bên cạnh tác động trên, phá sản chưa phải là dấu chấm hết đối với một doanh nghiệp. Trên thế giới đã chứng kiến nhiều nhà đầu tư thành công từ những doanh nghiệp phá sản. Dưới đây là hai vụ phá sản điển hình của hai công ty đại chúng ở Mỹ minh chứng cho luận điểm trên:

Thứ nhất là Công ty Kmart, một trong những hãng bán lẻ giá rẻ đầu tiên ở Mỹ, nộp đơn xin phá sản vào tháng 1/2002 sau khi doanh số và lợi nhuận sụt giảm, khiến công ty rơi vào tình trạng kẹt tiền mặt nghiêm trọng. Trái phiếu doanh nghiệp do Kmart phát hành không còn bán được nữa, trong khi các nhà cung cấp lưỡng lự giao hàng nhận tiền sau. Kmart coi suy thoái kinh tế Mỹ năm 2001 và sự cạnh tranh của các đối thủ khác là lý do dẫn tới khó khăn của hãng, nhưng trên thực tế là hãng không còn đủ sức hấp dẫn với người tiêu dùng.

Trong quá trình phá sản, Kmart đóng cửa hàng trăm trong số khoảng 2.000 cửa hàng của mình - một hoạt động thường gặp trong trường hợp phá sản của các hãng bán lẻ. Bên cạnh đó, hãng còn cắt giảm việc làm, hợp nhất các văn phòng và thanh lý hàng tồn kho.

Một nhà đầu tư là Eddie Lampert nhận thấy giá trị hấp dẫn ở nhiều tài sản bất động sản của công ty này nên đẩy mạnh mua vào trái phiếu của hãng. Sau khi Kmart hoàn tất quá trình phá sản kéo dài 455 ngày, Lampert trở thành chủ tịch của hãng. Ở vai trò này, Lampert đã bán phần lớn những tài sản bất động sản có giá trị nhất của Kmart, và sau đó, sáp nhập Kmart với hãng bán lẻ Sears vào năm 2004. Vụ sáp nhập trị giá lên đến 12,3 tỷ USD này đã đẩy giá cổ phiếu của Sears lên 22% và của Kmart lên 16% không lâu sau khi vụ sáp nhập công bố. Và kể từ ngày Kmart tự đứng dậy sau khi phá sản từ tháng 5/2003, giá cổ phiếu của Kmart đã tăng đến 700% tính đến mùa xuân 2005. Như vậy, bằng cách sáp nhập Công ty Kmart đã tìm lại được vị trí của mình sau khi tuyên bố phá sản.

Thứ hai là hãng hàng không Continental Airlines của Mỹ thì từng phá sản tới 2 lần, vào các năm 1983 và 1990. Đầu thập niên 1980, do phải đối mặt với suy thoái và sự nới lỏng giám sát trong ngành hàng không Mỹ, Continental rơi vào một cuộc chiến với các tổ chức công đoàn trong chuyện giảm tiền công và buộc phải nộp đơn xin bảo hộ phá sản.

Vào năm 1990, Continental lại phá sản tiếp lần nữa. Tuy nhiên, lần này, hãng phá sản vì những lý do khác. Giá nhiên liệu tăng cao cộng với nợ nần chồng chất vì chiến lược mua lại - “tác phẩm” của vị Chủ tịch đã phá vỡ thỏa thuận với công đoàn cách đó gần 1 thập kỷ - đã khiến Continental không còn lựa chọn nào khác. Vài tháng sau khi nỗ lực hết sức để thoát nguy cơ phá sản, chẳng hạn bán một số tuyến bay quốc tế cho hãng Delta, không đem lại kết quả, Continental lại nộp đơn lên tòa án xin tuyên bố phá sản.

Vì mục tiêu của Luật phá sản Mỹ là tái tạo lại doanh nghiệp bằng cách cho phép doanh nghiệp, cá nhân đang ở trong tình trạng vỡ nợ có thể nộp “đơn xin bảo hộ phá sản”. Khi đó, các doanh nghiệp cá nhân này được phép hoàn nợ trong vòng 5 năm nên với đơn xin phá sản giúp Continental tiếp tục hoạt động, một phần do tòa án buộc các hãng hàng không là đối tác của Continental duy trì thực hiện nghĩa vụ đối với hãng hàng không này, trong khi Continental có thể từ chối thanh toán cho các chủ nợ. Hai năm rưỡi sau khi phá sản, Continental trở thành một hãng hàng không độc lập và hiện là hãng hàng không lớn thứ 9 trên thế giới.‌

Với hai ví dụ nêu trên, có thể thấy phá sản, ở một chừng mực nhất định, do những tác động của Pháp luật phá sản thông qua sự hỗ trợ tích cực của Toà án, nhiều doanh nghiệp đã phục hồi hoạt động kinh doanh, được tái tạo lại tốt hơn và do đó hoạt động hiệu quả hơn trước.

II. Pháp luật về phá sản


1. Sự cần thiết phải có pháp luật phá sản


Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung do kiểm soát và định đoạt mọi nguồn lực sản xuất, Nhà nước trở thành một xí nghiệp khổng lồ, các đơn vị kinh doanh

Xem tất cả 94 trang.

Ngày đăng: 05/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí