2. Chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
2.1 Khái niệm chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Theo quan điểm chung, “nuôi con nuôi” được hiểu là việc cho trẻ em đi làm con nuôi ở gia đình khác trong cùng một nước hoặc ở nước ngoài, nhằm xác lập mối quan hệ cha mẹ và con, giữa người nuôi với người nuôi với mục đích bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Như vậy có thể thấy rằng, “nuôi con nuôi” là một phạm trù mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc.
Cùng với sự phát triển của xã hội, việc cho con nuôi không chỉ dừng lại ở phạm vi trong nước mà đã mở rộng ra phạm vi “có yếu tố nước ngoài”. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là loại hình nuôi con nuôi mà trẻ em có thể không còn ở nước gốc và người nhận trẻ em làm con nuôi là người nước ngoài. Tuy nhiên, về mặt nguyên tắc thì con nuôi trong nước hay con nuôi cho người nước ngoài đều phải thực hiện trên tinh thần “nhân đạo, nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em và tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em” điều đó có nghĩa là tìm cho trẻ em một mái ấm gia đình chứ không phải tìm “cho gia đình một đứa trẻ”.
Như chúng ta đã biết, vấn đề con nuôi là một vấn đề xã hội hết sức nhạy cảm và mang tính nhân đạo sâu sắc. Việc nuôi con nuôi không chỉ là một biện pháp phúc lợi cho trẻ em mà còn là một biện pháp xã hội và pháp lý để bảo vệ trẻ em. Vì vậy, vấn đề nuôi con nuôi đã được hầu hết các nước trên thế giới điều chỉnh. Những nước có truyền thống pháp luật thành văn điều chỉnh vấn đề nuôi con nuôi trong Bộ luật dân sự như Đức, Pháp, Hà Lan, Hàn Quốc. Nhiều nước điều chỉnh vấn đề con nuôi bằng những đạo luật riêng trong Đạo luật về tư cách cha mẹ như Thuỵ Điển, Singapore, Trung Quốc. Cũng nhằm mục đích bảo vệ trẻ em và phòng chống lạm dụng vấn đề con nuôi nước ngoài, cộng đồng quốc tế thông qua các tuyên bố, điều ước quốc tế đa phương và song phương đã đề ra có quy tắc, nguyên tắc quy định vấn đề nuôi con nuôi và những nguyên tắc này dần trở thành một chế định hiện đại của pháp luật quốc tế mà hầu hết các nước trên thế giới đều tuân thủ và dần từng
bước nội luật hoá những quy định này. Có thể kể đến một số điều ước quốc tế đa phương và song phương sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - 1
- Chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - 2
- Chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - 3
- Chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - 5
- Chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - 6
- Điều Ước Quốc Tế Về Nuôi Con Nuôi Có Yếu Tố Nước Ngoài Mà Việt Nam Ký Kết, Tham Gia.
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
a) Tuyên ngôn Giơnevơ 1924: Tuyên ngôn này kêu gọi “tất cả đàn ông và phụ nữ của mọi dân tộc có trách nhiệm tạo cho trẻ em những điều kiện tốt đẹp nhất...”
b) Tuyên ngôn của Đại hội đồng Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1959: Lần đầu tiên tuyên ngôn đưa ra 10 nguyên tắc làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật quốc gia và quốc tế về quyền trẻ em.
c) Công ước quốc tế về các quyền dân sự – chính trị năm 1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế – xã hội và văn hoá năm 1966 mặc dù không có các quy định trực tiếp về vấn đề nuôi con nuôi những đã có các quy định khẳng định trách nhiệm pháp lý của các quốc gia thành viên trong việc bảo hộ các quan hệ hôn nhân và gia đình
d) Tuyên ngôn của LHQ về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên quan đến việc bảo vệ và phúc lợi trẻ em, đặc biệt là việc bảo trợ, nuôi con nuôi trong và ngoài nước. Đây là văn kiện quốc tế đầu tiên đề cập một cách tương đối toàn diện về việc nuôi con nuôi
đ) Công ước của LHQ về quyền trẻ em năm 1989: lần đầu tiên vấn đề nuôi con nuôi được “luật pháp hoá”, được xác lập bằng các quy phạm pháp luật quốc tế. Theo quy định của Công ước, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ đảm bảo những lợi ích tốt nhất cho trẻ em trong quá trình xem xét cho nhận làm con nuôi. Trẻ em được nhận làm con nuôi ở nước khác được coi là biện pháp chăm sóc thay thế chỉ khi không thực hiện được việc gửi nuôi, nhận con nuôi hay các hình thức chăm sóc thích hợp khác ngay tại nước nguyên quán (Công ước về quyền trẻ em năm 1989)
e) Công ước về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước năm 1993 là văn bản pháp lý quốc tế quan trọng nhất
và liên quan trực tiếp nhất đến vấn đề con nuôi nước ngoài, đến việc bảo vệ quyền lợi cho trẻ em được người nước ngoài nhận làm con nuôi.
Như đã phân tích ở phần 1, vấn đề con nuôi trong pháp luật Việt Nam cũng giống như các nước trên thế giới. Cùng với thời gian, vấn đề nuôi con nuôi ngày càng được pháp điển hoá, từ chỗ chưa có những quy định cụ thể cho đến nay bằng những quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Nghị định 68/CP vấn đề nuôi con nuôi từ một hiện tượng xã hội đã phát triển thành một chế định pháp lý. Chế định nuôi con nuôi là một tập hợp các quy phạm pháp luật xác định các điều kiện nhận nuôi con nuôi, thủ tục giải quyết nuôi con nuôi, hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi...
2.2. Vị trí, vai trò của chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Như chúng ta đã biết, vấn đề nuôi con nuôi là một lĩnh vực hết sức nhậy cảm cả về chính trị lẫn xã hội, chính vì vậy việc quy định nuôi con nuôi như thế nào là một vấn đề hết sức quan trọng vừa làm sao tránh được những mặt tiêu cực xã hội cũng đồng thời đảm bảo quyền lợi của trẻ em. Do vậy có thể nói rằng, chế định nuôi con nuôi được các quốc gia và cộng đồng quốc tế quan tâm đặc biệt vì đó là sự bảo vệ pháp lý cần thiết nhằm đảm bảo những quyền lợi tối ưu nhất cho trẻ em. Như phần trên đã phân tích, gần một thế kỷ qua, cộng đồng quốc tế mà ở đây là các tổ chức quốc tế đã cùng nhau nỗ lực xây dựng và hoàn thiện chế định nuôi con nuôi trên các phương diện chính trị, đạo đức và pháp lý (xem hộp 1.5). Những quy định này thể hiện tính nhân văn cao và đặc biệt là bảo đảm cho trẻ em được hưởng sự chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục tốt nhất.
Việt Nam, cùng với xu thế hội nhập và toàn cầu hoá cũng đã dần từng bước xây dựng và hoàn thiện cho mình những quy định về nuôi con nuôi. Thực tế ở Việt Nam cho thấy chế định nuôi con nuôi góp phần không nhỏ cho việc quản lý và phát triển quan hệ hợp tác với các quốc gia trên thế giới thông qua hoạt động con nuôi. Cụ thể là, trước kia chưa có những quy định về nuôi con nuôi thì số lượng trẻ em Việt Nam được làm con nuôi người nước ngoài hết sức hạn chế, thậm chí chỉ loanh quanh một số nước trong khu vực XHCN. Tiếp đến những năm đầu của thời kỳ “đổi mới” Việt Nam đã ban hành được những quy định tạm thời về vấn đề nuôi con nuôi.
Hộp số 1.4: Sự quan tâm của các nước trên thế giới về nuôi con nuôi
Vào cuối những năm 70 khi có những hiện tượng “xuất khẩu ồ ạt” trẻ em từ một số nước nghèo đang phát triển sang một số nước giàu có phát triển phương Tây qua sự trung gian của một tổ chức hay cá nhân.
Trở thành cả “cung” lẫn “cầu” và hiện được quảng bá rộng rãi trên Internet, vấn đề con nuôi nước ngoài từ thuần tuý mang tính nhân đạo và bị biến thành một vấn đề mang tính xã hội phức tạp đang gây tranh cãi và chú ý trên toàn thế giới. Từ chỗ là một biện pháp mang tính phúc lợi xã hội và nhân đạo nhằm giúp trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt bị lợi dụng trong nhiều trường hợp thành một hoạt động vụ lợi mà trong đó trẻ em bị coi là hàng hoá mua đi, bán lại.
Cho, nhận con nuôi không đúng theo pháp luật để trục lợi và phục vụ các mục đích kinh tế cũng là một hình thức buôn bán trẻ em. Đây là một vấn đề ngày càn được quốc tế quan tâm, chính vì vậy trong hơn 70 năm qua, cộng đồng quốc tế đã nỗ lực cùng nhau xây dựng và ngày càng hoàn thiện những chuẩn mực chính trị, đạo đức và pháp lý tiến bộ, nhân văn về quyền trẻ em, trong đó có việc đảm bảo cho trẻ em được hưởng sự chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt nhất trong cộng đồng xã hội, phù hợp với khả năng của mỗi gia đình, mỗi quốc gia
(Hỏi đáp về đăng ký việc nuôi con nuôi 2003)
Chính nhờ những quy định này mà số lượng trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài có sự tăng đột biến, nhưng cũng phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực trong đó có vấn đề buôn bán trẻ em. Điều này đã đi trái với nguyên tắc và tập quán quốc tế về vấn đề con nuôi, do vậy trong những năm 2000 của Thế kỷ XXI, Việt Nam đã hoàn thiện hơn chế định nuôi con nuôi, dần tiếp cận với quy định của quốc tế do vậy việc quản lý con nuôi có những tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, bên cạnh vấn đề đó thì số lượng trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài lại bị giảm sút về số lượng,
hồ sơ xin trẻ bị tồn đọng, tệ nạn môi giới và buôn bán trẻ em có giảm nhưng hoạt động trở nên tinh vi hơn.
3. Pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
3.1 Pháp luật Việt Nam
Nghị quyết hội nghị Trung ương 8 khoá 7, Đảng ta đã chỉ rõ: “phải tiếp tục củng cố và tăng cường mở rộng quan hệ quốc tề về tư pháp, tạo hành lang pháp lý cho các quan hệ dân sự phát triển lành mạnh trong khuôn khổ pháp luật...”[2]. Thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng, hàng loạt các văn bản pháp luật về dân sự, HNGĐ trong đó có vấn đề con nuôi được ban hành. Vấn đề nuôi con nuôi được quy định ở các văn bản như: Luật dân sự năm 1995, sửa đổi năm 2005; Luật HNGĐ năm 2000, Luật quốc tịch 1998; Nghị định 68/CP quy định chi tiết thi hành Luật HNGĐ; Nghị định về đăng ký hộ tịch, hộ khẩu...
Điểm qua các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi có thể thấy rằng quan điểm của Việt Nam cũng giống như các nước trên thế giới đó là khuyến khích việc cho và nhận nuôi con nuôi trong nước (giữa công dân Việt Nam với nhau); tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ em được sống trong một môi trường trong lành và được giáo dục đầy đủ. Tuy nhiên, nếu bằng các biện pháp, khả năng có được nhưng các tiêu chí nêu trên vẫn không thực hiện được thì mới tìm đến giải pháp cho làm con nuôi người nước ngoài.
3.1.1. Nguyên tắc điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài Nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng luôn
là vấn đề được xã hội quan tâm do vậy khi giải quyết vấn đề này cần phải tuân theo những nguyên tắc nhất định theo quy định của pháp luật. Những nguyên tắc này chính là tư tưởng chỉ đạo mà bất kỳ ai dù ở cương vị nào khi giải quyết vấn đề con nuôi đều phải có nghĩa vụ tuân theo.
Theo quy định tại điều 35, Nghị định 68/CP thì quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được điều chỉnh bởi những nguyên tắc sau:
Thứ nhất, việc cho, nhận trẻ em làm con nuôi chỉ được thực hiện trên tinh thần nhân đạo, nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em và tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em đã được pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế ghi nhận. Một lần nữa thông qua quy định này, Việt Nam tiếp tục khẳng định với cộng đồng quốc tế chủ trương, chính sách đúng đắn, nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Việc cho, nhận trẻ em làm con nuôi chỉ được thực hiện trên tinh thần nhân đạo, nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em và tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em (Điều 35, khoản 1, Nghị định 68/CP)
Hình thành những đảm bảo để vấn đề con nuôi nước ngoài được tiến hành vì lợi ích tốt nhất cho trẻ em và tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em được công nhận trong luật pháp quốc tế (Điều 1, Công ước La Hay 1993)
Ngoài ra, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc nêu trên Việt Nam còn quy định thêm rằng: “Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi nhằm mục đích bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác” (Nghị định 68/CP). Nguyên tắc này trước đây chưa được quy định trong Nghị định 184/CP, do vậy bằng quy định này có thể thấy rằng Việt Nam đang dần tiếp cận với quy tắc chung của quốc tế.
Thứ hai, việc cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài thường trú ở nước ngoài sẽ được xem xét giải quyết nếu Việt Nam và nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú đã ký kết hoặc cùng gia nhập điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi. Có thể nói rằng, nguyên tắc này được hình thành sau khi đánh giá quá trình thực hiện Nghị định 184/CP cho thấy tình trạng lộn xộn, mất trật tự và gây ra rất nhiều khó khăn trong công tác quản lý an ninh đối với người nước ngoài trong công tác nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Tuân thủ nguyên tắc này, kể từ ngày 02/01/2003, Việt Nam chỉ giải quyết con nuôi cho những người nước ngoài thường trú tại nước đã ký kết điều ước quốc tế song phương với Việt Nam hoặc cùng gia nhập điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi với Việt Nam (trừ một số trường hợp ngoại lệ). Trong suốt quá trình thực hiện hơn 3 năm vừa qua, nguyên tắc này đã
ít nhiều phát huy tác dụng trong việc giải quyết và thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nuôi con nuôi, tạo ra những cơ sở pháp lý quốc tế cho vấn đề bảo vệ trẻ em sau khi được cho làm con nuôi ở nước ngoài, qua đó góp phần hạn chế các hiện tượng tiêu cực có thể xẩy ra liên quan đến việc cho và nhận nuôi con nuôi.
Cho đến nay, thực hiện nguyên tắc này, Việt Nam đã ký điều ước quốc tế hoặc Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với 13 nước và vùng lãnh thổ, cụ thể là: Cộng hoà Pháp (01/02/2000), Vương quốc Đan Mạch (26/5/2003), Cộng hoà Italia (13/6/2003), với Ailen (23/9/2003), Vương quốc Thuỵ Điển (04/02/2004), với ba cộng đồng: Bỉ (17/3/2005), Canada (27/6/2005), Quebeec Canada (15/9/2005), với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (21/6/2005), Liên bang Thụy Sĩ (20/12/2005) và Ôntariô Canada (03/4/2006).
Tuy nhiên, khi thực hiện nguyên tắc này cũng đã gây không ít khó khăn cho những người nước ngoài thường trú tại các nước chưa ký kết điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam và thực tế cho thấy số lượng trẻ em Việt Nam cho người nước ngoài làm con nuôi có chiều hướng giảm đi, cụ thể là trong năm 2004 chỉ giải quyết được 500 trẻ em, năm 2004 giải quyết 1200 trẻ em và đến tháng 10/2006 giải quyết được 1240 trẻ em, trongkhi đó năm 1997 giải quyết được 1576 và năm 1998 có 1860 trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài (nguồn Bộ Tư pháp).
Bên cạnh đó, Nghị định 68/CP cũng đưa ra phương án có thể gọi là tạm thời trong bối cảnh Việt Nam chưa kịp gia nhập Công ước La Hay 1993 và cũng không thể nhanh chóng ký điều ước quốc tế với tất cả các nước có nhu cầu xin trẻ em Việt Nam làm con nuôi, điều đó có nghĩa là Việt Nam cho phép người nước ngoài thường trú tại nước chưa ký kết hiệp định hoặc chưa cùng gia nhập với Việt Nam điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi chỉ được xem xét giải quyết nếu xin đích danh trẻ em mồ côi, tàn tật hoặc có quan hệ họ hàng, thân thích với người xin nhận con nuôi. Nếu không có quan hệ họ hàng, thân thích với trẻ thì người nước ngoài phải có thời gian sinh sống, làm việc, học tập, lao động tại Việt Nam ít nhất từ 6 tháng trở lên. Tuy nhiên, thời gian vừa qua có
khoảng 30 trường hợp được giải quyết theo quy định ngoại lệ này, chủ yếu là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài về Việt Nam xin nhận trẻ em (là cháu, có quan hệ họ hàng) làm con nuôi (Bộ Tư pháp, 2005).
3.1.2. Điều kiện nhận nuôi con nuôi
Như đã trình bày ở phần trên, việc nuôi con nuôi nói chung cũng như nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng phải nhằm gắn bó tình cảm giữa người nuôi và con nuôi trong quan hệ cha mẹ và con, đảm bảo cho người con chưa thành niên được chăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt, phù hợp với đạo đức xã hội [13]. Nhằm góp phần thực hiện mục đích của Công ước La Hay 1993 là đảm bảo vấn đề nuôi con nuôi nước ngoài được tiến hành vì lợi ích tốt nhất của trẻ em và tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em, thiết lập một hệ thống hợp tác giữa các quốc gia thành viên để bảo đảm ngăn ngừa việc bắt cóc, buôn bán trẻ em [19], pháp luật Việt Nam quy định về điều kiện nhận nuôi con nuôi đối với người nhận nuôi và đối với con nuôi
3.1.2.1. Điều kiện với người xin nhận con nuôi
Ngoài những điều kiện mang tính nguyên tắc được nêu tại mục 3.2.1 ở trên thì người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải có đủ điều kiện để nuôi con nuôi theo quy định tại Điều 69 của Luật HNGĐ (khoản 1, điều 37, Nghị định 68/CP). Các điều kiện đó là:
- Phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;
- Có tư cách đạo đức tốt;
- Có các điều kiện thực tế đảm bảo việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con tốt;
- Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tình trạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, vợ, chồng, cha, mẹ, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán,