Miễn Trách Nhiệm Hình Sự Do Sự Chuyển Biến Của Tình Hình

đến cùng mặc dù họ có khả năng thực hiện và điều kiện khách quan không có gì ngăn cản. Theo đó, các điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội bao gồm:

Thứ nhất, việc chấm dứt thực hiện ý định hoặc hành vi phạm tội của người phạm tội phải tự nguyện và dứt khoát, có nghĩa người đó phải từ bỏ thực sự ý định phạm tội hoặc hành vi phạm tội mà họ đã bắt đầu, chứ không phải tạm thời dừng lại chốc lát để chờ cơ hội, điều kiện thuận lợi khác hay chuẩn bị kỹ lưỡng hơn sẽ tiếp tục phạm tội. Việc chấm dứt này thể hiện sự tự kiềm chế của một người để không thực hiện ý định hoặc hành vi phạm tội của mình đến cùng mặc dù người đó có khả năng thực hiện và tất cả những điều kiện khách quan bên ngoài không có gì cản trở họ. Nói một cách khác, xuất phát từ động lực (động cơ) bên trong của bản thân người phạm tội thúc đẩy mà họ đã tự bỏ hẳn ý định không thực hiện tội phạm đến cùng, mặc dù đối với họ hoàn toàn có khả năng khách quan để thực hiện và ngay cả thực tế khi dừng lại, người phạm tội vẫn tin tưởng rằng hiện tại không có trở ngại gì và nếu bản thân muốn thì họ vẫn có thể tiếp tục thực hiện tội phạm. Do đó, tất cả những trường hợp chủ thể dừng lại việc thực hiện tội phạm đến cùng do các nguyên nhân khách quan khác (như: do bị thúc ép, do bị bắt buộc, do bị phát hiện hay gặp trở ngại khác...) đều không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.

Thứ hai, việc chấm dứt thực hiện tội phạm phải và chỉ xảy ra trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, chứ không thể xảy ra ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành hay giai đoạn tội phạm hoàn thành. Bởi lẽ, ở trường hợp sau thì người phạm tội đã thực hiện được đầy đủ những dấu hiệu khách quan và chủ quan của tội phạm và việc dừng lại không thực hiện tội phạm hoàn toàn không làm thay đổi tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi do người phạm tội thực hiện. Nói một cách khác, mặc dù người phạm tội dừng lại và không có gì ngăn cản nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã

hoàn thành thì họ đã thực hiện hết những hành vi phạm tội theo ý muốn và tin rằng hậu quả sẽ xảy ra, nhưng hậu quả lại không xảy ra hoặc đối với giai đoạn tội phạm hoàn thành thì người phạm tội cũng đã thực hiện xong tội phạm và việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không làm thay đổi tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

Thứ ba, việc chấm dứt việc thực hiện tội phạm phải do chính bản thân người đó tự quyết định, mặc dù vào thời điểm thực tế quyết định chấm dứt việc thực hiện tội phạm, người phạm tội vẫn nhận thức được khả năng thực tế khách quan vẫn cho phép tiếp tục thực hiện tội phạm. Trường hợp "nếu một người nào đó quyết định ngừng thực hiện tội phạm sau khi thấy rõ ràng điều kiện khách quan không cho phép thực hiện được tội phạm thì không được thừa nhận là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội" [64, tr. 172].

Do đó, nếu đáp ứng đầy đủ những điều kiện trên, thì "... Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm. Nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đầy đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này". Như vậy, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chính là một trường hợp miễn trách nhiệm hình sự quy định trong Phần chung Bộ luật hình sự năm 1999. Một mặt nó thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam, nhưng mặt khác nó cho phép một người đã có ý định phạm tội, đã có hành vi chuẩn bị hoặc bắt tay vào việc thực hiện tội phạm nhưng đã nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được hưởng lượng khoan hồng, độ lượng của Nhà nước - không phải chịu trách nhiệm hình sự, được miễn trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, đây cũng chính là một trong những biện pháp góp phần ngăn chặn những hậu quả nguy hiểm cho xã hội sẽ xảy ra, nó cũng cho phép một người có ý định phạm tội, đã có hành vi chuẩn bị hoặc bắt tay vào việc thực hiện tội phạm vẫn có khả năng lựa chọn cách xử sự của mình - hoặc tiếp tục thực hiện tội phạm đến cùng và có thể phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc không thực hiện tội phạm đến cùng sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự. Và trong một số trường hợp

khi một người có hành vi nguy hiểm cho xã hội họ đã lựa chọn cách xử sự thứ hai và điều này thực tế rõ ràng đã góp phần hạn chế những thiệt hại nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra. Mặc dù vậy, nếu hành vi thực tế mà chủ thể đó thực hiện đã cấu thành một tội phạm khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này.

Về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự do tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội tại Điều 19 Bộ luật hình sự năm 1999, nhà làm luật nước ta mới chỉ quy định việc áp dụng biện pháp này đối với một loại người đồng phạm là người thực hành và ngay cả Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 chỉ mới hướng dẫn về việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người thực hành tội phạm, chưa có hướng dẫn về việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong các trường hợp có đồng phạm với ba loại người đồng phạm còn lại - người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức. Tuy nhiên, việc áp dụng tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong vụ án có đồng phạm thì chỉ có người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm mới áp dụng các điều kiện cụ thể của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Còn đối với người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức thì cần phải thêm hai điều kiện nữa. Một là, sự tự ý của họ phải xảy ra trước khi người thực hành trực tiếp bắt tay vào việc phạm tội và hai là, cùng với sự tự ý đó, những người này còn phải có những hành động ngăn ngừa việc thực hiện tội phạm. Trên cơ sở này, ngày 19/04/1989, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lại ra Nghị quyết Hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự năm 1985, trong đó có hướng dẫn cụ thể về vấn đề trên. Theo đó:

- Đối với người xúi giục, người tổ chức phải thuyết phục, khuyên bảo, đe dọa để người thực hành không thực hiện tội phạm hoặc phải báo cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, báo cho người sẽ là nạn nhân biết về tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện để cơ quan Nhà nước hoặc người sẽ là nạn nhân có biện pháp ngăn chặn tội phạm.

- Đối với người giúp sức phải chấm dứt việc tạo những điều kiện tinh thần, vật chất cho việc thực hiện tội phạm (như không cung cấp phương tiện, công cụ phạm tội; không chỉ điểm, dẫn đường cho kẻ thực hành…). Nếu sự giúp sức của người giúp sức đang được những người đồng phạm khác sử dụng để thực hiện tội phạm, thì người giúp sức cũng phải có những hành động tích cực như đã nêu ở trên đối với người xúi giục, người tổ chức để ngăn chặn việc thực hiện tội phạm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 153 trang tài liệu này.

Mặc dù người xúi giục, người tổ chức, người giúp sức được miễn trách nhiệm theo Điều 16 Bộ luật hình sự trong trường hợp họ ngăn chặn được việc thực hiện tội phạm, hậu quả của tội phạm không xảy ra. Nhưng nếu những việc họ đã làm không ngăn chặn được tội phạm, hậu quả của tội phạm vẫn xảy ra, thì họ có thể vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự; họ chỉ có thể được miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, nếu trước khi hành vi phạm tội bị phát giác mà họ đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm.

Như vậy, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là một trường hợp miễn trách nhiệm hình sự có tính chất bắt buộc đối với tất cả các cơ quan tư pháp hình sự khi có đủ các cơ sở cho thấy người phạm tội đã thực sự "tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản" và đây chính là căn cứ pháp lý duy nhất được quy định trong luật để áp dụng cho người phạm tội khi họ tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.

Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam - 7

2.1.2. Miễn trách nhiệm hình sự do sự chuyển biến của tình hình

Theo khoản 1 Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999 thì người phạm tội "được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa". Theo đó, đây là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự có tính chất bắt buộc đối với hai trường hợp:

Thứ nhất, khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa và;

Thứ hai, khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử do sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

Trước đây trong Bộ luật hình sự năm 1985 thì đây là trường hợp miễn có tính chất tùy nghi (quy định là có thể được miễn). Do đó, đây là một điểm mới quan trọng thể hiện xu hướng nhân đạo hóa trong pháp luật hình sự Việt Nam nói chung, cũng như trong việc áp dụng các chế định nhân đạo của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội và đối với cả hành vi phạm tội của họ nữa nói riêng. Ngoài ra, khoản 1 cũng mới bổ sung thêm trong giai đoạn truy tố (ngoài giai đoạn điều tra và xét xử theo Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1985), người phạm tội cũng được miễn trách nhiệm hình sự nếu hội đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện khác do luật định.

Cũng trong khoản 1 Điều luật này, nhà làm luật nước ta không quy định áp dụng trường hợp miễn trách nhiệm hình sự này đối với loại tội phạm nào, cho nên, nó được áp dụng đối với tất cả các loại tội phạm (quy định tại khoản 3 Điều 8), miễn là khi có đủ căn cứ pháp lý chung (khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do sự chuyển biến của tình hình) và phải thuộc một trong hai điều kiện đã nêu tại khoản 1 của điều luật đó - hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa hoặc người người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

Về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự này, pháp luật hình sự nước ta có điểm tương đồng với pháp luật hình sự Liên bang Nga. Cụ thể, Điều 78 Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định "Người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu thấy rằng sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội hoặc hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa".

Như vậy, trước hết về căn cứ "sự chuyển biến của tình hình" được hiểu như là sự thay đổi những điều kiện trong đời sống xã hội về các phương diện khác nhau như kinh tế, chính trị-xã hội, pháp luật, văn hóa, khoa học-kỹ thuật... trong phạm vi có thể là toàn xã hội hay có thể xét riêng trong phạm vi

của một số vùng, một số địa phương hay thậm chí trong phạm vi một cơ quan Nhà nước nào đó. Ví dụ: một doanh nghiệp Nhà nước theo đúng trình tự do luật định tuyên bố thay đổi địa vị pháp lý của mình để chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần [45, tr. 94]. Tuy nhiên, sự thay đổi này là quy luật tất yếu và nhất thiết phải là cơ sở đưa đến một trong hai điều kiện để người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự tương ứng trong hai trường hợp cần được xem xét dưới đây.

1) Trường hợp do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

Đây là trường hợp khi các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, do tình hình đã thay đổi, pháp luật hình sự hiện hành quy định hành vi do người đó thực hiện đã không còn nguy hiểm cho xã hội, mặc dù vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội thì hành vi đó vẫn được quy định trong pháp luật hình sự và đối với nó phải bị xử lý bằng biện pháp pháp lý hình sự. Nói một cách khác, do "sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa" có nghĩa hành vi phạm tội này trước đây đã bị pháp luật hình sự cấm, nhưng sau đó do có sự thay đổi nay không còn bị coi là tội phạm nữa (không bị pháp luật hình sự cấm), mặc dù nó vẫn có thể bị coi là vi phạm pháp luật khác (như: pháp luật hành chính, pháp luật dân sự hoặc là hành vi trái đạo đức).

Căn cứ để xác định do "sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội" là quy định của Nhà nước có liên quan đến hành vi phạm tội, các quy định này nhất thiết phải bằng văn bản có tính pháp quy của Nhà nước. Tuy nhiên, trong trường hợp nếu sự chuyển biến tình hình và tình hình đó tuy có liên quan đến tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội đã xảy ra nhưng chưa được Nhà nước quy định thì người có hành vi phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự như các trường hợp phạm tội

khác trên những cơ sở chung. Như vậy, "sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa" được hiểu như sau:

Một là, đó là sự thay đổi các điều kiện khách quan trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội (như đã nêu trên), đồng thời sự thay đổi ấy nhất thiết phải là yếu tố làm cho hành vi phạm tội được thực hiện không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, tức là trước khi có sự thay đổi của tình hình thì hành vi ấy bị coi là nguy hiểm cho xã hội nên việc thực hiện hành vi này bị coi là tội phạm và chủ thể của hành vi phải chịu trách nhiệm hình sự. Nhưng sau khi có sự thay đổi của tình hình, thì hành vi ấy không còn nguy hiểm cho xã hội, trở thành hành vi chưa đến mức bị xử lý về hình sự hoặc thậm chí có thể được coi là hành vi phù hợp với các yêu cầu của pháp luật và, do đó người thực hiện hành vi ấy vào thời điểm sau khi có sự thay đổi của tình hình không bị coi là người phạm tội nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Hai là, do hành vi được thực hiện vào thời điểm trước đây mà pháp luật quy định là tội phạm và chủ thể vẫn bị coi là có trách nhiệm hình sự đối với việc thực hiện hành vi ấy, nhưng tại thời điểm điều tra, truy tố hoặc xét xử hành vi ấy đã mất đi hẳn tính nguy hiểm cho xã hội, nên luật quy định là người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, chúng ta đều biết luật hình sự Việt Nam mang tính nhân đạo sâu sắc vì thế nên khi xác định hành vi phạm tội để xử lý bằng biện pháp hình sự thì nhà làm luật bao giờ cũng căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội. Và do vậy, trong trường hợp này hành vi không còn nguy hiểm cho xã hội nữa và pháp luật quy định cho họ có thể được miễn trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội trước đây.

2) Trường hợp do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

Đây là dạng thứ hai của trường hợp miễn trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999. Theo đó, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành điều tra, truy tố

hoặc xét xử do sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

Cơ sở của trường hợp miễn trách nhiệm hình sự này cũng là những thay đổi, chuyển biến về hoàn cảnh của đời sống xã hội (như đã nêu trên) và chính những thay đổi, chuyển biến này làm cho bản thân người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

Tuy nhiên, người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa cần được hiểu dưới góc độ pháp luật hình sự. Điều này có nghĩa là: người phạm tội trước đây đã bị coi là người phạm tội, nhưng nay do chính kết quả của sự thay đổi tình hình (chứ không phải là do sự đánh giá về mặt đạo đức-xã hội hoặc có tình tiết giảm nhẹ nào liên quan đến tội phạm được thực hiện) mà bản thân trở nên không còn nguy hiểm cho xã hội nữa hoặc thậm chí có khi lại là người có ích cho xã hội [45, tr. 96]. Cho nên, do sự chuyển biến của tình hình và người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa được hiểu là:

Thứ nhất, sự thay đổi của tình hình ở đây phải xảy ra sau khi chủ thể thực hiện hành vi phạm tội, đồng thời tại thời điểm khi có sự thay đổi của tình hình thì tội phạm phải đang ở trong giai đoạn điều tra, truy tố hoặc xét xử.

Thứ hai, người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa có nghĩa là trước khi có sự thay đổi của tình hình người đó là đối tượng nguy hiểm cho xã hội, bị dư luận xã hội lên án và người đó đáng phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội đã thực hiện. Song, tại thời điểm các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử với sự thay đổi của tình hình, thì người này đã không còn là đối tượng nguy hiểm cho xã hội nữa và được xã hội thừa nhận như những người lao động lương thiện khác.

Mặc dù vậy, cũng cần tránh hiểu sai rằng khi phạm tội họ là người nguy hiểm cho xã hội, nhưng sau đó họ trở thành người lương thiện, có uy tín và có ích cho xã hội và được xã hội cần, thì cũng là do sự chuyển biến của

Xem tất cả 153 trang.

Ngày đăng: 24/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí