Tòa án giải quyết các tranh chấp liên quan đến quan hệ hôn nhân thuận lợi và thống nhất.
2.1.2. Điều kiện kết hôn
2.1.2.1. Điều kiện về nội dung
* Phải đủ tuổi kết hôn
Khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên" mới được kết hôn.
Luật Hôn nhân và gia đình quy định tuổi kết hôn dựa trên căn cứ khoa học về sự phát triển tâm sinh lý của các bên nam, nữ và điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta. Nam nữ kết hôn xác lập quan hệ hôn nhân, hình thành gia đình. Gia đình phải thực hiện chức năng sinh đẻ nhằm duy trì và phát triển nòi giống. Để đảm bảo cho con sinh ra được khỏe mạnh, nòi giống phát triển lành mạnh. Đồng thời, khi đạt độ tuổi trưởng thành, nam nữ có thể tự mình lựa chọn và quyết định việc kết hôn, có thể tham gia vào quá trình lao động tạo ra thu nhập để bảo đảm cho gia đình cuộc sống ổn định về kinh tế sau khi kết hôn. Do vậy, Luật Hôn nhân và gia đình quy định tuổi kết hôn đối với nam là từ hai mươi tuổi, nữ là từ mười tám tuổi. Quy định này thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với sức khỏe của nam nữ, bảo đảm cho nam nữ có thể đảm đương trách nhiệm làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ. Đồng thời, quy định này còn bảo đảm cho con cái sinh ra được khỏe mạnh cả về thể lực và trí tuệ. Như vậy, "quy định độ tuổi cho phép nam nữ kết hôn là tạo điều kiện cho việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững" [65, tr. 93].
Khi xây dựng Luật Hôn nhân và gia đình có nhiều quan điểm về tuổi kết hôn. Có quan điểm cho rằng, cần hạ thấp tuổi kết hôn cho phù hợp với thực tế và có thể hòa nhập với luật pháp quốc tế. Có quan điểm cho rằng độ tuổi kết hôn có thể theo phong tục tập quán trong xã hội phong kiến thời xưa, quan niệm khi "nữ thập tam, nam thập lục" (nữ 13, nam 16) thì cơ thể phát
triển dậy thì và có khả năng sinh sản và như thế đã đủ tuổi được cha mẹ "dựng vợ gả chồng". Cũng có quan điểm khác cho rằng, nên quy định tuổi kết hôn đối với nam và nữ như nhau. Cụ thể là nam nữ mười tám tuổi trở lên được phép kết hôn. Tuy nhiên, những quan điểm trên đây không được chấp nhận. Bởi vì, kể từ khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực pháp luật (13/01/1960), quy định về độ tuổi kết hôn đã được thi hành trong một khoảng thời gian dài hơn bốn mươi năm. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đều quy định nam từ hai mươi tuổi trở lên và nữ từ mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn. Kế thừa Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 vẫn quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu của nam từ hai mươi tuổi và nữ từ mười tám tuổi. Pháp luật thời kỳ phong kiến trong các bộ luật Hồng Đức và Gia Long không có điều khoản nào ghi nhận về độ tuổi kết hôn nhưng trong văn bản "Hồng Đức hôn giá lễ nghi" có quy định "con trai mười tám tuổi, con gái mười sáu tuổi mới có thể thành hôn". Như vậy, có thể nói Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu rộng hơn. Quyền kết hôn là một trong những quyền nhân thân của cá nhân. Luật pháp quy định "nam nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình có quyền tự do kết hôn" (Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2005). Vì thế pháp luật chỉ quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu mà không quy định độ tuổi kết hôn tối đa. Việc quy định độ tuổi tối thiểu này nhằm đảm bảo nam - nữ khi đến độ tuổi đó có những suy nghĩ chín chắn, trưởng thành để quyết định kết hôn với nhau.
Về cách tính tuổi kết hôn: Luật không quy định cách tính tuổi mà theo quy định của Luật về độ tuổi có thể vận dụng cách tính tuổi kết hôn: Tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định độ tuổi kết hôn "nam từ hai mươi tuổi, nữ từ mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn". Theo hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP) thì "không bắt buộc nam phải đủ từ hai mươi tuổi, nữ phải đủ từ mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn; do đó nam đã bước sang tuổi hai mươi, nữ đã bước sang tuổi mười tám mà kết hôn là không vi phạm điều kiện về độ tuổi kết hôn". Để làm rõ hơn về cách tính tuổi kết hôn, tại Điều 3 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Nghị định số 70/2001/NĐ-CP) cũng quy định "nam đang ở tuổi hai mươi, nữ đang ở tuổi mười tám thì đủ điều kiện về tuổi kết hôn theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình". Như vậy, chỉ cần nam bước sang tuổi hai mươi, nữ bước sang tuổi mười tám là đã đủ tuổi kết hôn.
Có thể bạn quan tâm!
- Chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000 - 2
- Chế Định Kết Hôn Trong Pháp Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Trước Cách Mạng Tháng 8 Năm 1945
- Chế Định Kết Hôn Trong Pháp Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Giai Đoạn Từ Năm 1975 Đến Nay
- Chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000 - 6
- Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Hậu Quả Pháp Lý
- Người Có Quyền Yêu Cầu Tòa Án Hủy Kết Hôn Trái Pháp Luật
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Ví dụ: Anh Nguyễn Minh Thanh sinh ngày 11/09/1990 thì đến ngày 11/9/2009 anh Thanh tròn 19 tuổi. Như vậy bắt đầu từ sau ngày 11/9/2009 là anh Thanh đã bước sang tuổi 20 và đủ tuổi kết hôn theo Luật định. Lúc đó anh Thanh hoàn toàn có quyền kết hôn mà không bị coi là vi phạm điều kiện về độ tuổi kết hôn.
Các văn bản luật hướng dẫn áp dụng cách tính tuổi kết hôn tối thiểu quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình như trên là phù hợp với tình hình thực tiễn. Cách tính tuổi kết hôn như vậy tạo ra khoảng thời gian cho nam nữ tự do lựa chọn thời điểm kết hôn mà không phải "chờ" cho đủ tuổi luật quy định mới được phép kết hôn. Văn bản giải thích về cách tính tuổi kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình là bước tiến bộ đáng kể trong việc tổ chức thực hiện pháp luật, giúp các nhà thực thi pháp luật có căn cứ để giải quyết những vấn đề phát sinh liên quan đến độ tuổi kết hôn.
Tuy nhiên nếu đem cách tính tuổi kết hôn tối thiểu ra đối chiếu với tinh thần của pháp luật thì lại thấy không phù hợp. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định "nam từ hai mươi tuổi, nữ từ mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn" nhưng theo Bộ luật Dân sự năm 2005 thì "Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người
chưa thành niên" (Điều 18) và theo đó chỉ người thành niên mới có năng lực hành vi dân sự đầy đủ còn người chưa đủ mười tám tuổi "khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi…" (khoản 1 Điều 20 Bộ luật Dân sự năm 2005). Như vậy, trường hợp anh Nguyễn Văn A - hai mươi tuổi kết hôn với chị Trần Hồng H - mười bảy tuổi hai ngày. Lúc đầu quan hệ vợ chồng anh chị hạnh phúc nhưng càng ngày quan hệ giữa hai vợ chồng mâu thuẫn càng căng thẳng. Chị quyết định ly hôn. Lúc đó chị mười bảy tuổi mười tháng. Theo Bộ luật Dân sự quy định: "Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi trở lên là người chưa thành niên" (Điều 18 Bộ luật Dân sự năm 2005) và cũng quy định người thành niên có khả năng nhận thức được hành vi mới có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, theo Bộ luật Tố tụng dân sự thì lại quy định Điều 57 như sau:
1. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng dân sự do pháp luật quy định. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực pháp luật tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự.
3. Đương sự là người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, trừ người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác.
4. Đương sự là người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
5. Đương sự là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện [46].
Chính vì vậy, khi chị H gửi đơn ly hôn ra Tòa thì Tòa không thụ lý vì lý do chị chưa đủ mười tám tuổi theo Luật định để đứng nguyên đơn. Trường hợp của chị H sẽ được giải quyết ra sao? Đây là một vấn đề vướng mắc trong quá trình giải quyết các vấn đề liên quan đến cách tính tuổi theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
* Phải có sự tự nguyện của hai bên nam nữ khi kết hôn
Theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì "việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở".
Tự nguyện kết hôn là việc hai bên nam nữ thể hiện sự đồng ý trở thành vợ chồng của nhau, mỗi bên không bị tác động ý chí của bên kia hay của bất kỳ ai khiến cho họ phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ. Sự tự nguyện hoàn toàn trong việc kết hôn là việc hai bên nam nữ thực sự yêu thương nhau, mong muốn trở thành vợ chồng xuất phát từ tình yêu thương giữa họ nhằm mục đích cùng nhau xây dựng gia đình. Sự tự nguyện hoàn toàn này là yếu tố quan trọng đảm bảo cho hôn nhân tồn tại lâu dài và bền vững.
Hôn nhân là quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, do đó việc thể hiện ý chí ưng thuận giữa các bên trong hôn nhân là một trong các điều kiện căn bản để hôn nhân có hiệu lực. Luật Hôn nhân và gia đình quy định kết hôn phải đảm bảo sự tự nguyện là nguyên tắc cơ bản, nhằm xóa bỏ hoàn toàn chế độ hôn nhân phụ thuộc vào cha mẹ của gia đình phong kiến và xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa trên nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ; một vợ, một chồng; vợ chồng bình đẳng. Kế thừa Luật Hôn nhân và gia đình năm
1959 và 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định để đảm bảo việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện thì "khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam nữ kết hôn" (Điều 14). Khi đó họ trực tiếp trả lời trước cán bộ phụ trách việc đăng ký kết hôn và đại diện cơ quan đăng ký kết hôn rằng, họ hoàn toàn tự nguyện kết hôn với nhau. Chính vì vậy pháp luật không cho phép cử người đại diện trong việc đăng ký kết hôn, đồng thời cũng không cho phép những người kết hôn vắng mặt tại lễ đăng ký kết hôn.
Trường hợp vì lý do khách quan hay chủ quan mà khi tổ chức đăng ký kết hôn chỉ có mặt một bên nam hoặc nữ thì "nếu trước khi tổ chức đăng ký kết hôn các bên đã nộp đủ các giấy tờ cần thiết cho việc đăng ký kết hôn và sau khi tổ chức đăng ký kết hôn họ thực sự về chung sống với nhau thì việc kết hôn của họ vẫn được công nhận là hợp pháp (mục 2, điểm c Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP).
Luật quy định việc kết hôn phải có sự tự nguyện của cả hai bên nam nữ là nhằm đảm bảo cho họ được tự do thể hiện ý chí và tình cảm khi kết hôn, khẳng định mục đích xây dựng gia đình và chung sống lâu dài của họ. Bất kỳ trường hợp kết hôn nào mà không có ý chí tự nguyện của hai bên nam nữ thì đều bị coi là kết hôn trái pháp luật. Những hành vi cưỡng ép kết hôn, lừa dối để kết hôn hoặc cản trở việc kết hôn tự nguyện, tiến bộ đều bị cấm. Luật cũng quy định người bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không có khả năng nhận thức được hành vi của mình bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự thì không được kết hôn. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn xảy ra một số trường hợp kết hôn do bị cưỡng ép, bị lừa dối, kết hôn giải tạo không nhằm mục đích xác lập quan hệ vợ chồng mà nhằm vào những mục đích khác như kết hôn nhằm chiếm đoạt tài sản của bên kia; kết hôn nhằm để đạt được ý muốn xuất cảnh một cách hợp pháp… Những trường hợp này khi có yêu cầu, về nguyên tắc Tòa án nhân dân có quyền xử lý hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Như vậy, điều kiện về sự tự nguyện không phải là điểm mới được ghi nhận ở chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Đây là
một quy định được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 kế thừa và phát triển từ Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và 1986.
* Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn
Theo quy định tại Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì việc kết hôn bị cấm trong các trường hợp sau:
+ Người đang có vợ hoặc chồng (khoản 1 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000)
Xuất phát từ bản chất của hôn nhân xã hội chủ nghĩa là hôn nhân một vợ một chồng, chỉ có hôn nhân một vợ, một chồng mới bảo đảm sự bền vững và hạnh phúc gia đình, vợ chồng mới thực sự yêu thương nhau, quý trọng, chăm sóc và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ…. Bởi vì "bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ… cho nên hôn nhân dựa trên tình yêu giữa nam và nữ do ngay bản chất của nó, là hôn nhân một vợ, một chồng" [1, tr. 129-130]
Hôn nhân một vợ, một chồng lấy tình yêu giữa nam và nữ làm cơ sở xác lập hôn nhân và tình yêu giữa vợ và chồng là cơ sở duy trì quan hệ hôn nhân. Chỉ có hôn nhân một vợ, một chồng được xây dựng và duy trì trên cơ sở tình yêu giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng thì mới đảm bảo cho hôn nhân tồn tại bền vững và trong gia đình vợ chồng mới thực sự yêu thương, quý trọng, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, đảm bảo xây dựng gia đình thực sự hạnh phúc. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác nhằm xóa bỏ chế độ đa thê trong xã hội phong kiến trước đây, đảm bảo hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.
Như vậy, người đang có vợ, có chồng là người đã kết hôn theo đúng quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về điều kiện kết hôn, đã đăng ký kết hôn và quan hệ hôn nhân của họ chưa bị chấm dứt do ly hôn hoặc do một bên vợ, chồng chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết.
Trước khi ban hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, hệ thống pháp luật của Nhà nước ta đã thừa nhận quan hệ hôn nhân đối với trường hợp "nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng, tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn". Do đó, người đang có vợ, có chồng bao gồm cả "người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn; người sống chung với người khác như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn" (theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 và Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP).
Pháp luật phong kiến Việt Nam cho phép người đàn ông có quyền có nhiều vợ (đa thê) (Điều 79, 80 dân luật Bắc Kỳ). Quy định cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác nhằm mục đích xóa bỏ tận gốc chế độ đa thê, bảo đảm hạnh phúc và sự bền vững của gia đình. Có thể nói, việc Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác là phù hợp với thực tiễn xã hội và bảo đảm quyền và lợi ích của vợ, chồng. Tuy nhiên, cần lưu ý trường hợp những cán bộ bộ đội ở miền Nam đã có vợ hoặc chồng ở miền Nam, khi tập kết ra miền Bắc (1954) lại lấy vợ hoặc chồng khác. Sau khi đất nước thống nhất (30/4/1975) thực tế đã tồn tại trường hợp một người có hai vợ hoặc hai chồng. Việc kết hôn của họ xét về hình thức đã vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng nhưng không bị coi là việc kết hôn trái pháp luật. Hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ đang có chiến tranh và bản thân họ cũng không muốn như vậy. Vì thế, Nhà nước đã quan tâm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên. Theo Thông tư số 60-TATC ngày 22/2/1978 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết các việc tranh chấp về hôn nhân và gia đình của cán bộ, bộ đội có vợ, có chồng trong Nam, tập kết ra Bắc lấy vợ lấy chồng khác, Tòa án đã giải quyết các trường hợp trên một cách đúng đắn, thấu tình đạt lý.