- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để nghiên cứu tổng hợp các lí thuyết về chất lượng tăng trưởng kinh tế của các học giả trong và ngoài nước. Trong luận án, phương pháp này được áp dụng để nghiên cứu về lịch sử hình thành khái niệm, bản chất khái niệm, các khía cạnh về nội dung, các tiêu chí đánh giá… của chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Phương pháp so sánh đã được vận dụng để so sánh các chỉ tiêu tương ứng, các kết quả đạt được của Hà Nội với một số địa phương, thành phố khác trong nước và trên thế giới nhằm làm rõ thực trạng chất lượng tăng trưởng kinh tế của Hà Nội thời gian qua.
Phương pháp lôgích và lịch sử là phương pháp thường được vận dụng trong nghiên cứu kinh tế. Trong đó, phương pháp lôgích là xem xét, nghiên cứu các sự kiện dưới dạng tổng quát, nhằm vạch ra bản chất, khuynh hướng tất yếu, quy luật vận động của sự vật. Phương pháp lịch sử là phương pháp xem xét và trình bày quá trình phát triển của các sự vật, hiện tượng theo một trình tự liên tục và nhiều mặt, trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác.
5. Những đóng góp mới của Luận án
- Góp phần làm rõ cơ sở lí luận về chất lượng tăng trưởng kinh tế, xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế của một địa phương như thủ đô Hà Nội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng tăng trưởng kinh tế của Hà Nội trong thời gian qua.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của Hà Nội trong thời gian tới.
6. Kết cấu của Luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương với nội dung:
Có thể bạn quan tâm!
- Chất lượng tăng trưởng kinh tế của Hà Nội - 1
- Chất lượng tăng trưởng kinh tế của Hà Nội - 2
- Các Nghiên Cứu Liên Quan Đến Chất Lượng Tăng Trưởng Kinh Tế Của Hà Nội Một Trong Những Nghiên Cứu Ngoài Nước Có Giá Trị Tham Khảo Tốt Khi Nghiên Cứu
- Khái Niệm Và Nội Dung Chất Lượng Tăng Trưởng Kinh Tế
- Sơ Đồ Biểu Diễn Mối Liên Hệ Giữa Tăng Trưởng, Chất Lượng Tăng Trưởng Và Phát Triển Kinh Tế
Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về chất lượng tăng trưởng kinh tế Chương 2. Cơ sở lí luận và kinh nghiệm thực tiễn về nâng cao chất lượng tăng
trưởng kinh tế
Chương 3. Thực trạng chất lượng tăng trưởng kinh tế của Thủ đô Hà Nội trong thời gian qua
Chương 4. Quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của Hà Nội trong thời gian tới.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.1. Các công trình nghiên cứu về chất lượng tăng trưởng kinh tế của các tác giả ngoài nước
Tăng trưởng kinh tế là mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt số lượng và chất lượng, tuy nhiên, các học giả thường chỉ chú trọng vào mặt số lượng mà ít chú trọng đến mặt chất lượng. Hơn nữa, khi nghiên cứu về mặt số lượng của tăng trưởng kinh tế, các kinh tế gia thường đi sâu phân tích các yếu tố tác động đến quá trình tăng trưởng mà vấn đề cốt lõi là: cái gì là nguồn gốc cơ bản của tăng trưởng kinh tế?
Để giải quyết vấn đề đó, Adam Smith (1723-1790) [25, tr.24-28] chỉ ra rằng, 3 nhân tố duy nhất quyết định quá trình tăng trưởng kinh tế là lao động, vốn và các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, trong 3 nhân tố đó thì lao động (chứ không phải đất đai, tiền bạc) được coi là nguồn gốc tạo ra mọi của cải hay nguồn gốc cơ bản của tăng trưởng kinh tế. David Ricardo (1772-1823) [26, tr.28-30], kế thừa những quan điểm của Adam Smith, Ricardo là người đầu tiên phát hiện những giới hạn của sự tăng trưởng kinh tế do các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng khan hiếm. Theo Ông, khi nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày càng tăng lên (do dân số không ngừng tăng lên), thì những vùng đất kém màu mỡ hơn sẽ được huy động vào sản xuất, dẫn tới chi phí cận biên tăng lên. Quá trình này kéo dài, đến lúc tỉ suất lợi nhuận của nhà đầu tư tụt xuống quá thấp, làm cho nhà tư bản không còn động cơ đầu tư thêm, thậm chí rút dần vốn khỏi quá trình sản xuất, do đó tăng trưởng kinh tế sẽ giảm dần và dừng lại.
Về giác độ chất lượng tăng trưởng kinh tế, các tác giả trên đây đã đề cập đến vai trò của vốn, lao động và nguồn tài nguyên đất đai, tuy nhiên, điểm hạn chế của họ là chưa đề cập đến yếu tố tác động của khoa học kĩ thuật. Trong kinh tế hiện đại ngày nay, dựa trên việc áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ trong nông nghiệp, con người có thể tăng sản lượng mà không cần mở thêm diện tích. Đó chính là một trong những yếu tố quan trọng của việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
- J.M Keynes (1883-1946) [26, tr. 66- 76], tác giả của lí thuyết trọng cầu cho rằng, để tăng trưởng kinh tế chính phủ cần phải chủ động tăng chi tiêu ngân sách cho đầu tư,
nhất là đầu tư vào các dự án công cộng để làm tăng tổng cầu, mở ra quá trình tăng trưởng kinh tế và tạo thêm việc làm. Từ đây, Keynes cho rằng, các chính phủ cần chủ động can thiệp, quản lí nền kinh tế để duy trì tăng trưởng bền vững [26, tr.74]. Chính quan điểm này đã mở đầu cho một giai đoạn quay ngược hoàn toàn với quan điểm truyền thống về tăng trưởng kinh tế của lí thuyết cổ điển.
Về chất lượng tăng trưởng kinh tế, đóng góp lí thuyết của Keynes là đề cao vai trò của chính phủ. Theo đó, ngoài những yếu tố góp phần làm tăng trưởng kinh tế thì chính phủ đóng vai trò rất quan trọng. Một chính phủ có những chính sách phù hợp thì có thể làm cho nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao mà không cần tăng vốn, lao động hoặc tài nguyên… Tuy nhiên, lí thuyết Keynes còn một số hạn chế như thiếu khả năng giải thích được những vấn đề tăng trưởng dài hạn. Hạn chế đó đã được các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu và phát triển thành lí thuyết kinh tế hậu Keynes [26, tr.75-76].
Dựa vào lí thuyết của Keynes, Chính phủ các nước đã sử dụng chính sách kinh tế để hạn chế mức độ lạm phát và thất nghiệp, làm tăng mức sản lượng tiềm năng. Nhưng sau một thời gian dài, các nước lại có xu hướng quá nhấn mạnh vai trò của chính sách kinh tế, do đó, hạn chế mức độ tự điều chỉnh của thị trường và xuất hiện những trở ngại mới cho quá trình tăng trưởng. Trong bối cảnh đó, một trường phái kinh tế mới ra đời. Các nhà kinh tế của trường phái này ủng hộ việc xây dựng một nền kinh tế hỗn hợp, trong đó thị trường trực tiếp xác định quan hệ cung-cầu và những quan hệ cơ bản khác của nền kinh tế, còn Nhà nước tham gia điều tiết có mức độ nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường.
Thực chất của trường phái kinh tế hiện đại là sự xích gần nhau của trường phái tân cổ điển và học thuyết kinh tế của Keynes. Đại diện xuất sắc cho trường phái kinh tế hiện đại là P.A. Samuelson [26, tr.87-93]. Nếu các nhà kinh tế học của phái cổ điển và cổ điển mới say sưa với lí thuyết “Bàn tay vô hình”, trường phái Keynes cổ vũ cho học thuyết “bàn tay nhà nước”, thì Samuelson chủ trương phát triển kinh tế phải dựa vào cả “hai bàn tay”- đó là cả thị trường và nhà nước. Theo Ông cho rằng “điều hành một nền kinh tế không có chính phủ hoặc thị trường cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”.
Lí thuyết kinh tế hiện đại có một số điểm mới so với các học thuyết tăng trưởng kinh tế trước đó. Theo Samuelson, ngoài các yếu tố vật chất như vốn, đất đai, lao động, tài
nguyên trực tiếp tác động đến tăng trưởng kinh tế, yếu tố tiến bộ công nghệ ngày càng trở nên quyết định đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Lí thuyết hiện đại cũng xác định rõ mối quan hệ giữa các yếu tố sản xuất. Samuelson cho rằng một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế hiện đại là “kĩ thuật công nghiệp tiên tiến hiện đại dựa vào việc sử dụng vốn lớn”. Do đó, vốn là cơ sở để phát huy tác dụng của các yếu tố khác: vốn là cơ sở để tạo việc làm và có công nghệ tiên tiến. Vì vậy, trong tính toán kinh tế ngày nay, hệ số ICOR vẫn được coi là cơ sở để xác định tỉ lệ đầu tư cần thiết phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Lí thuyết tăng trưởng hiện đại cũng khẳng định: vai trò ngày càng tăng của Nhà nước trong điều tiết kinh tế. Theo Samuelson, trong nền kinh tế hỗn hợp hiện đại, chính phủ có 4 chức năng cơ bản: thiết lập khuôn khổ pháp luật, xác định chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, tác động vào việc phân bổ tài nguyên để cải thiện hiệu quả kinh tế, thiết lập các chương trình tác động đến việc phân phối thu nhập. Theo ông, Chính phủ cần tạo ra môi trường ổn định để cho các doanh nghiệp và các hộ gia đình tiến hành sản xuất và trao đổi sản phẩm một cách thuận lợi.
Các lí thuyết về tăng trưởng nêu trên đều cố gắng giải thích những yếu tố vật chất, hay những yếu tố về lượng quyết định quá trình tăng trưởng kinh tế. Tóm lại, có 4 yếu tố chủ yếu quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế: đó là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, mức độ tích luỹ vốn lớn, sự đổi mới công nghệ.
Cho đến đầu những năm 1980, tăng trưởng dựa vào tốc độ, quy mô, số lượng được coi là mục tiêu hàng đầu của các quốc gia. Tuy nhiên, đến đầu thập kỉ 1990, tốc độ tăng trưởng cao ở một số quốc gia đang phát triển đã chậm lại, một số quốc gia còn đạt tốc độ tăng trưởng âm (châu Phi)… [72, tr.36] sự phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng lên, sự tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với với nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt và suy thoái môi trường… Thực tế đó đã đặt dấu hỏi lớn cho các nhà khoa học. Vậy, có phải tăng trưởng ngắn hạn là không bền vững, không đảm bảo cho một sự tăng trưởng trong dài hạn? Quá trình tăng trưởng trong thời gian qua có phải chỉ chú ý đến chiều rộng, chưa chú ý đến chiều sâu? Quá trình tăng trưởng vừa qua chưa mang tính chất lượng…? Kể từ đó, trên diễn đàn kinh tế, bắt đầu xuất hiện khái niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Nhằm phát triển các khái niệm trước đó, năm 2000, Vinod Thomas và cộng sự (Oxford Universiti Press) [90, tr.102], trong Nghiên cứu “Chất lượng tăng trưởng kinh tế,” đã đưa ra những luận cứ về số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế. Khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế bền vững, các tác giả không nghiên cứu một cách trực diện, mà thực hiện gián tiếp, đi từ khía cạnh chất lượng của tăng trưởng. Theo các tác giả, để có tăng trưởng bền vững cần phải duy trì tăng trưởng trong dài hạn và đồng thời chú trọng tới hai mặt của tăng trưởng, đó là số lượng và chất lượng. Các tác giả đã phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tăng trưởng và minh họa qua các phân tích, số liệu thực tiễn của nhiều nước trên thế giới. Theo các tác giả: “Chất lượng tăng trưởng kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao, diễn ra liên tục trong một thời gian dài, đồng thời sự tăng trưởng đó phải bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội và cải thiện môi trường” (Vinod Thomas và cộng sự, 2000, tr.102).
Định nghĩa này chỉ ra rằng, một nền kinh tế phát triển theo hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng phải bảo đảm 3 nội dung cơ bản là kinh tế, xã hội và môi trường: (1). Về khía cạnh kinh tế, đó là sự tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và phải được duy trì liên tục trong dài hạn; (2). Khía cạnh xã hội yêu cầu sự tăng trưởng kinh tế phải đóng góp trực tiếp vào cải thiện một cách bền vững phúc lợi xã hội, cụ thể là phân phối thành quả của phát triển và xóa đói giảm nghèo; (3). Khía cạnh môi trường đòi hỏi sự tăng trưởng kinh tế không những không làm xuống cấp mà còn phải góp phần cải thiện chất lượng môi trường. Như vậy, với quan điểm này, tăng trưởng kinh tế được nhìn nhận toàn diện hơn và được nâng lên một bước so với trước.
Tuy định nghĩa trên đây đã nêu lên được các đặc trưng của tăng trưởng kinh tế, nhưng vẫn còn một số hạn chế nhất định. Đó là không nêu ra được, những tiêu chí hay nhóm các tiêu chí để từ đó có thể tiến hành phân tích đánh giá chất lượng tăng trưởng của một nền kinh tế.
Hạn chế này có thể được bổ sung bởi các nghiên cứu của một số nhà kinh tế học nổi tiếng như Lucas (1993), Sen (1999), Stigliz (2000). Theo đó, chất lượng tăng trưởng biểu hiện tập trung ở một số tiêu chí chủ yếu sau: (1). Sự đóng góp ngày càng cao của yếu tố năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) để đảm bảo duy trì được tốc độ tăng trưởng dài hạn và hạn chế được những tác động của yếu tố bên ngoài tới quá trình phát triển kinh tế trong
nước; (2). Hiệu quả sử dụng các nguồn lực như vốn, lao động... ngày càng cao; (3). Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng cao; tính ổn định trong tăng trưởng kinh tế ngày càng bền vững. Cơ cấu kinh tế ngày càng phát triển theo hướng chất lượng và hiện đại; (4). Tăng trưởng kinh tế có chất lượng là tăng trưởng đảm bảo thực hiện mục tiêu phát triển xã hội, cải thiện và tăng cường phúc lợi cho người dân, giảm tỉ lệ và số lượng người đói, nghèo; tăng cường dân chủ xã hội... (5). Tăng trưởng kinh tế có chất lượng là tăng trưởng kinh tế gắn với bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái, tức là tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển bền vững [89, tr.67].
Lí thuyết về chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng được sự quan tâm đặc biệt của các tổ chức quốc tế. Trong các báo cáo phát triển con người, UNDP [63, tr.8] lần đầu tiên đã đưa ra một số khái niệm khác nhau về sự tăng trưởng như tăng trưởng mất gốc, tăng trưởng không tương lai…
Điểm chung của các khái niệm này chỉ xoay quanh một vấn đề, đó là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với chất lượng. Sự tăng trưởng kinh tế chỉ chú trọng vào tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian ngắn, không chú trọng đến năng suất, hiệu quả, khả năng cạnh tranh… là sự tăng trưởng kinh tế kém bền vững. Sự tăng trưởng kinh tế mà không đem lại điều kiện sống tốt hơn cho phần đông người nghèo, không gắn liền với sự cải thiện về dân chủ, đạo đức xã hội bị suy thoái là tăng trưởng mất gốc. Sự tăng trưởng kinh tế nhưng huỷ hoại môi trường sống của con người là sự tăng trưởng không tương lai…tăng trưởng cần gắn với chất lượng, phát triển phải bền vững, chú trọng tới tất cả ba thành tố: kinh tế, xã hội và môi trường.
Tóm lại, chất lượng tăng trưởng kinh tế đã được các học giả nước ngoài đề cập đến từ lâu và việc tiếp cận nghiên cứu được bắt đầu từ tăng trưởng kinh tế. Trên cơ sở lí luận đó, tăng trưởng kinh tế được coi là mục tiêu hàng đầu cho tất cả các quốc gia trong quá trình phát triển. Trong một thời gian dài, hầu hết các nước đều tập trung hết nguồn lực phục vụ tăng trưởng kinh tế thông qua tăng tích lũy tài sản vốn vật chất, thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, khai thác tài nguyên thiên nhiên để phục vụ tăng trưởng.
Tuy nhiên, thực tiễn tăng trưởng nhanh lại không đạt được những mục tiêu mà các quốc gia này kì vọng. Tăng trưởng không luôn đi đôi với xóa đói nghèo, đồng thời cũng không đảm bảo các nước nghèo có thể đuổi kịp các nước giàu. Tăng trưởng kinh tế cao
trong ngắn hạn không đảm bảo duy trì trong dài hạn. Từ cuối thập niên 1990, khi nghiên cứu tính bền vững của tăng trưởng kinh tế, vấn đề chất lượng tăng trưởng bắt đầu được đề cập nhiều hơn trên quan điểm tăng trưởng cần phải gắn với chất lượng.
Mặc dù vậy, cho đến nay, trên thế giới vẫn có rất nhiều cách hiểu khác nhau về chất lượng tăng trưởng kinh tế. Theo nghĩa hẹp: Chất lượng tăng trưởng có thể hiểu trong giới hạn ở một số khía cạnh đó là: hiệu quả của đầu tư, đánh giá qua chỉ tiêu hệ số ICOR; hoặc coi tương đương với khái niệm năng suất nhân tố tổng hợp, đánh giá qua chỉ tiêu TFP (Total Factor ). Theo nghĩa rộng: Chất lượng tăng trưởng có thể tiến tới nội hàm của quan điểm về phát triển bền vững, chú trọng tới tất cả ba thành tố kinh tế, xã hội và môi trường. Hơn nữa, do việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế là một quá trình dài và đòi hỏi phải phù hợp với điều kiện đặc thù của từng nước, vì vậy, phải có định hướng dài hạn và giải pháp phát triển phù hợp với thực tế của từng nước, từng phạm vi kinh tế.
1.2. Các công trình nghiên cứu về chất lượng tăng trưởng kinh tế của các tác giả Việt Nam
Ở nước ta, các nghiên cứu về chất lượng tăng trưởng kinh tế chỉ mới được bắt đầu trong khoảng thời gian gần đây. Tuy nhiên, các nghiên cứu đều tập trung vào tham khảo và vận dụng các lí thuyết, mô hình đã được nghiên cứu ở nước ngoài để phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Nội dung, phạm vi nghiên cứu khá đa dạng. Về nội dung một số nghiên cứu đề cập một cách toàn diện đến tất cả các yếu tố tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế, một số nghiên cứu khác lại chỉ đề cập đến một số khía cạnh, một số yếu tố tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Về phạm vi nghiên cứu bên cạnh một số ít đề cập đến chất lượng kinh tế trên phạm vi cả nước, một số không ít các nghiên cứu chỉ đề cập đến chất lượng tăng trưởng của một ngành, một lĩnh vực, hoặc một vùng, một địa phương nhất định.
Phương pháp tiếp cận nghiên cứu chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có rất nhiều cách khác nhau, mỗi cách tiếp cận có ưu và nhược điểm riêng. Tuy nhiên có hai hướng tiếp cận chủ yếu như sau: - Hướng tiếp cận chất lượng tăng trưởng kinh tế theo những đặc trưng của phát triển bền vững. - Hướng khác tiếp cận, đánh giá tăng trưởng kinh tế dựa trên cơ sở phân tích các yếu tố đầu vào và trực tiếp tác động đến tăng trưởng,
dạng như hàm sản xuất tổng quát. Biểu thị mối quan hệ phụ thuộc giữa đầu ra với các nhân tố đầu vào…
Như vậy, việc tiến hành nghiên cứu về chất lượng tăng trưởng kinh tế ở nước ta chưa lâu, song số lượng các công trình nghiên cứu trong nước là đáng kể. Trong đó có những nghiên cứu có nhiều đóng góp quan trọng, điển hình là những nghiên cứu sau đây:
GS.TS. Trần Thọ Đạt; ThS Đỗ Tuyết Nhung trong “Vai trò của năng suất tổng hợp nhân tố (TFP) trong chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 169, tháng 7/2011 [23, tr.22], đã chỉ ra rằng, chất lượng tăng trưởng biểu hiện tập trung ở các tiêu chuẩn chính sau: (1) yếu tố năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) cao, đảm bảo cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng dài hạn và tránh được những biến động từ bên ngoài; (2) tăng trưởng phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; (3) tăng trưởng đi kèm với phát triển môi trường bền vững; (4) tăng trưởng hỗ trợ cho thể chế dân chủ luôn đổi mới, đến lượt nó thúc đẩy tăng trưởng ở tỉ lệ cao hơn; và (5) tăng trưởng phải đạt được mục tiêu cải thiện phúc lợi xã hội và giảm đói nghèo.
Cũng theo các tác giả, một nền kinh tế tăng trưởng có chất lượng thể hiện qua các đặc trưng sau: (i) Tốc độ tăng trưởng cao và được duy trì trong một thời gian dài; (ii) Phát triển có hiệu quả, thể hiện qua năng suất lao động cao và ổn định, hệ số ICOR phù hợp và đóng góp của TFP cao; (iii) Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng nâng cao hiệu quả, phù hợp với thực tiễn của nền kinh tế trong mỗi thời kì; (iv) Nền kinh tế có tính cạnh tranh cao; (v) Tăng trưởng kinh tế đi đôi với đảm bảo hài hòa đời sống xã hội; (vi) Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái; (vii) Quản lí hiệu quả của nhà nước.
TS. Lê Xuân Bá và TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh (2006): Trong “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam-15 năm (1991-2005) từ góc độ phân tích đóng góp của nhân tố sản xuất”; Nxb. Khoa học và Kĩ thuật, Hà Nội [6], đã phân tích, đánh giá đóng góp của các nhân tố sản xuất như vốn, lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Nghiên cứu này đã đưa yếu tố con người vào phân tích tăng trưởng. Việc đo lường mức độ đóng góp của yếu tố con người sẽ cho một cách nhìn tốt hơn về các yếu tố đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc đưa yếu tố này vào mô hình tính toán tăng trưởng sẽ làm giảm sự đóng góp của tổng năng suất yếu tố TFP [6, tr.47]. Trong một