Thực Trạng Hoạt Động Xử Lý Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Liên Quan Đến Nhãn Hiệu Của Chủ Sở Hữu Nhãn Hiệu

phạm quyền sở hữu trí tuệ sẽ được tập trung hơn, cũng như hiệu quả thực thi quyền sở hữu trí tụê đối với nhãn hiệu sẽ được nâng cao.

f. Cảnh sát kinh tế

Lực lượng Cảnh sát kinh tế thường xuyên tiến hành các biện pháp, phối hợp với các lực lượng, các ngành, các cấp phát hiện và điều tra các vụ việc liên quan đến sở hữu trí tuệ nói chung cũng như cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu nói riêng, thu giữ hàng hóa trị giá hàng trăm tỷ đồng. Tại Hội nghị sơ kết công tác phòng ngừa đấu tranh chống sản xuất, buôn bán hàng giả và xâm phạm sở hữu trí tuệ năm 2008, từ năm 2002 đến năm 2008, các cơ quan chức năng đã phát hiện và xử lý hàng ngàn vụ việc với gần 1.500 đối tượng có hành vi vi phạm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung.

Song, lực lượng Cảnh sát kinh tế vẫn vấp phải hạn chế chung, đó là trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhìn chung còn thấp. Do đó, việc phát hiện, điều tra những vụ việc trong thời gian vừa qua là một thành tích đáng ghi nhận, nhưng so với thực tiễn vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trên thị trường thì vẫn còn rất hạn chế.

g. Cơ quan thanh tra khoa học và công nghệ

Theo Nghị định 12/1999/NĐ-CP ngày 06/03/1999, Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ ở trung ương và Thanh tra Sở khoa học và công nghệ ở cấp tỉnh là cơ quan thanh tra chuyên ngành sở hữu công nghiệp, một trong những cơ quan thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các biện pháp xử lý vi phạm của Thanh tra chuyên ngành chưa thực sự mạnh mẽ và kiên quyết. Mãi cho đến ngày 01/09/2006, cơ quan này mới lần đầu tiên xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới SHCN[43]. Hơn nữa, số lượng cán bộ thanh tra còn quá ít để thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành SHCN, hầu như là thanh tra chung cho các lĩnh vực khoa học công nghệ. Chính vì vậy, thực tế hoạt động thanh tra và xử lý vi phạm hành chính đối với các hành

vi xâm phạm quyền SHCN nói chung và quyền SHCN đối với nhãn hiệu nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, việc chủ động tiến hành thanh tra, phát hiện và xử lý vi phạm còn hạn chế. Thêm vào đó, trình độ chuyên môn của các cán bộ thanh tra còn thấp cũng làm cho hoạt động thanh tra kém hiệu quả.

2.2. Các cơ quan hỗ trợ thực thi

Cơ quan hỗ trợ thực thi pháp luật về xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới SHCN nói chung và liên quan đến nhãn hiệu nói riêng trước tiên phải kể đến Hội Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Trong thời gian qua, Hội SHTT Việt Nam đã đóng góp rất nhiều trong việc nâng cao nhận thức về SHTT nói chung và cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu nói riêng thông qua các buổi sinh hoạt của chi hội, các lớp tập huấn về SHTT. Tuy nhiên, Hội SHTT chưa thực sự chú trọng đến việc tự bảo vệ cho quyền lợi của hội viên theo quy định của pháp luật mà vẫn còn trông chờ vào cơ quan quản lý nhà nước.

Bên cạnh Hội SHTT thì vai trò của các công ty đại diện SHCN cũng góp phần đáng kể trong công tác xử lý, ngăn chặn các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu. Hầu hết khiếu nại về xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra đều thông qua sự tư vấn và giải quyết của các công ty đại diện SHCN. Với sự am hiểu về pháp luật SHTT, các cơ quan này đã góp phần giúp các doanh nghiệp khiếu nại thành công. Trong thời gian qua, đáng chú ý phải kể đến các công ty đại diện SHTT Banca, công ty SHTT INVENCO, công ty Wincolaw… đã giúp rất nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thành công trong việc khiếu nại. Tuy nhiên, hệ thống tư vấn và các công ty đại diện SHCN này chưa thực sự hoạt động trên phạm vi rộng, chủ yếu chỉ tập trung tại các thành phố lớn, hơn nữa phí tư vấn cũng còn khá cao cũng là một điểm hạn chế đối với các cơ quan hỗ trợ thực thi này.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

3. Thực trạng hoạt động xử lý cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu của chủ sở hữu nhãn hiệu

Các chủ thể của quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu đóng vai trò chủ chốt trong việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu. Song, hiện nay, phần lớn các chủ sở hữu quyền SHCN đối với nhãn hiệu chưa thực sự chú ý đến việc bảo vệ quyền lợi của mình, chưa có ý thức cao trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. Trong khi đó, trình độ và hiểu biết về tác hại của xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với sức khỏe, lợi ích cộng đồng còn rất hạn chế. Hiện nay, rất ít doanh nghiệp có bộ phận chuyên chăm lo về SHTT, hầu như chưa có doanh nghiệp nào có chiến lược về SHTT, coi vấn đề SHTT là một bộ phận trong chiến lược phát triển của mình. Tài sản trí tuệ chưa trở thành đối tượng quản lý như quản lý tài sản thông thường. Hơn nữa, trong thời gian qua, các doanh nghiệp đã chú trọng vào việc xây dựng thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi, chất lượng hàng hóa nhưng lại chưa quan tâm đến khâu đăng kí bảo hộ nhãn hiệu của mình ở những khu vực thị trường đã và sẽ phát triển. Chẳng hạn như, hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh còn chưa nhận thức được rằng: hiệu lực bảo hộ nhãn hiệu chỉ được xác lập sau khi được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu. Do đó, ngay sau khi nộp đơn yêu cầu đăng kí nhãn hiệu, rất nhiều daonh nghiệp đã tiến hành quảng cáo, in ấn, sử dụng nhãn hiệu đó cho các hàng hóa, dịch vụ của mình, mà không lường hết được hậu quả pháp lý của hành vi đó là đơn không được chấp thuận, có thể do Cục SHTT từ chối do không đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo hộ, hoặc do bên thứ ba phản đối với lý do xâm phạm đến quyền của họ. Đây chính là hành vi cạnh tranh không lành mạnh xảy ra rất phổ biến trong quá trình đăng kí nhãn hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam. Hậu quả là các doanh nghiệp này phải chịu các thiệt hại về vật chất cũng như uy tín của mình. Một ví dụ cụ thể cho tình trạng này đó là trường hợp một doanh nghiệp ở Việt Nam nộp

Cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu tại Việt Nam - 10

đơn đăng kí bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa “Kando và Hình” cho sản phẩm áo đi mưa. Sau khi nộp đơn đăng kí nhãn hiệu, chưa được cấp Giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu, chủ doanh nghiệp đã tiến hành việc quảng cáo, in ấn nhãn hiệu, sử dụng nhãn hiệu cho các sản phẩm của mình mà không biết rằng dấu hiệu đăng kí “Kando và Hình” có các biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh với nhãn hiệu “Rando và Hình” đã được cấp Giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu cho sản phẩm cùng loại trước đó. Chủ sở hữu nhãn hiệu “Rando và Hình” đã yêu cầu chủ doanh nghiệp sử dụng dấu hiệu “Kando và Hình” phải ngừng ngay việc sử dụng, loại bỏ dấu hiệu trên các sản phẩm, biển hiệu, tiêu huỷ các giấy tờ, tài liệu có gắn dấu hiệu “Kando và Hình”. Hậu quả là doanh nghiệp này phải chịu mất mát về tài sản và phải thay đổi toàn bộ kế hoạch sản xuất, kinh doanh của mình.

Nhiều doanh nghiệp chưa có ý thức trong việc phát hiện và ngăn ngừa việc làm giả các sản phẩm của mình, chưa chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, kiểm soát. Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh Việt Nam khi bị xâm phạm đến quyền và lợi ích của mình vẫn còn có tâm lý ngại tiếp xúc với Tòa án, ngại đưa việc tranh chấp ra Tòa án vì sợ mang tiếng bị coi là phải ra hầu tòa, không muốn đưa vấn đề ra công khai trước công chúng, sợ ảnh hưởng đến uy tín cũng như doanh số và mức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Như vậy việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu từ phía các chủ thể cũng vẫn còn rất hạn chế.

4. Đánh giá hoạt động xử lý cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu tại Việt Nam

4.1. Thành tựu

Trong thời gian qua, hoạt động thực thi pháp luật về xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu đã đạt được những thành công sau:

Bộ máy thực thi pháp luật về xử lý cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu đã được hình thành từ hệ thống quản lý hành chính cho đến hệ thống tư pháp.

Hệ thống quản lý hành chính đã phản ánh được thẩm quyền chung và thẩm quyền riêng được phân định cũng khá rõ ràng giữa các bộ ngành thuộc Trung ương và các tỉnh thành.

4.2. Hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đạt được trong thời gian qua, hoạt động xử lý cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu của hệ thống thực thi và hỗ trợ thực thi cũng như chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp còn có những hạn chế sau:

Trình độ và chất lượng hoạt động của các cơ quan nhà nước chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn, cũng như chưa đáp ứng được nhu cầu hội nhập quốc tế. Quyền SHTT nói chung cũng như quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan nhãn hiệu còn là một khái niệm mới mẻ với Việt Nam, do vậy số lượng đội ngũ cán bộ trong cơ quan thực thi còn thiếu, chất lượng còn hạn chế. Các cán bộ chuyên trách trong hệ thống thực thi pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu có trình độ đào tạo cao còn hiếm.

Việc thực thi pháp luật về xử lý cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu nói chung chủ yếu là hệ thống hành chính. Tuy nhiên hệ thống này lại bộc lộ rất nhiều bất cập sau:

Thứ nhất, thiếu sự hợp tác chặt chẽ mang tính chất ổn định giữa các chủ thể quyền SHCN đối với nhãn hiệu và các cơ quan thực thi. Các doanh nghiệp vẫn còn e ngại trong việc tiếp xúc với các cơ quan thực thi pháp luật.

Thứ hai, việc phân định trách nhiệm giữa các cơ quan là không rõ ràng, có sự chồng chéo. Hiện nay, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với

các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong đăng kí nhãn hiệu thuộc về nhiều cơ quan khác nhau, bao gồm: Uỷ ban nhân dân các cấp, Thanh tra Khoa học và Công nghệ, Thanh tra văn hóa, Cảnh sát kinh tế, Quản lý thị trường, Hải quan. Từ đó, làm nảy sinh tình trạng chồng chéo, đùn đẩy lẫn nhau và làm cho hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trở nên rắc rối, phức tạp. Mặt khác bản thân từng cơ quan thực thi vẫn chưa thể thực hiện đầy đủ các biện pháp nhằm xử lý triệt để các hành vi canh tranh không lành mạnh này, dẫn đến người bị vi phạm không biết khiếu nại tại đâu. Chẳng hạn, khi bị xâm phạm do hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa, doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc chọn lựa giữa Toà án và Cục QLCT. Nếu doanh nghiệp gửi hồ sơ khiếu nại lên Cục QLCT thì Cục sẽ xử lý bằng cách phạt vi phạm hành chính đối với bên vi phạm và khắc phục hậu quả do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra. Còn nếu muốn được bồi thường, doanh nghiệp bị thiệt hại phải sử dụng quyết định của Cục để khởi kiện ra Toà án dân sự.

Thứ ba, vai trò của Toà án trong việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong SHCN còn rất mờ nhạt so với các cơ quan hành chính. Thủ tục xét xử các vụ vi phạm còn rườm rà, phức tạp. Đội ngũ thẩm phán, điều tra viên xét xử các vụ vi phạm còn hạn chế cả về số lượng và trình độ.

CHƯƠNG III‌

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH LIÊN QUAN ĐẾN

NHÃN HIỆU TẠI VIỆT NAM


I. Yêu cầu đối với hoạt động xử lý cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế thế giới đã trở thành một xu thế khách quan trong thế giới ngày nay khi làn song toàn cầu hoá đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ. Hội nhập kinh tế quốc tế của các nền kinh tế chuyển đổi, trong đó có Việt Nam là quá trình thực hiện tự do hóa thương mại và thực hiện cải cách toàn diện theo hướng mở của thị trường. Hội nhập có nghĩa là phải chấp nhận áp lực cạnh tranh sẽ gia tăng mạnh hơn; tham gia phân công lao động quốc tế để khai thác các tiềm năng bên ngoài, kết hợp và phát huy tối đa nội lực, không ngừng nâng cao sức mạnh về kinh tế và vị thế quốc gia. Đó là quá trình đầy thử thách và cam go nhưng cũng chứa đựng nhiều cơ hội lớn đối với nền kinh tế của chúng ta nếu biêt nắm bắt và tận dụng.

Nhận thức được tầm quan trọng của hội nhập kinh tế thế giới, từ Đại hội lần thứ VI, Đảng ta đã đề cập đến vấn đề nay và đã bước đầu đề ra các hướng đi mới đối với nền kinh tế trong nước. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, với Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta tiếp tục khẳng định “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”. Nghị quyết này đã kế thừa, cụ thể hóa và triển khai các đường lối của Đảng đề ra từ trước đến nay, đồng thời đáp ứng kịp thời những đòi hỏi khách quan của tiến trình

hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Chính nhờ vào chủ trương đúng đắn này mà trong những năm qua, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng bị boa vây, cấm vận, cô lập, tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế nước ta trên chính trường và thương trường quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã kí kết nhiều Hiệp định thương mại song phương và đa phương quan trọng, thiết lập quan hệ với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, trở thành thành viên của các tổ chức như ASEAN, ASEM, APEC, và đặc biệt là vào ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Gia nhập WTO đã đem lại nhiều cơ hội thuận lợi cho Việt Nam, nhưng cũng đặt ra nhiều yêu cầu đối với nước ta, đặc biệt là vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nói riêng cũng như các biện pháp chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu.

Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ dẫn đến việc càng ngày càng có nhiều doanh nghiệp nước ngoài tham gia sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam với rất nhiều chủng loại hàng hóa rất phong phú và đa dạng. Điều này cũng sẽ khiến cho tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, làm giả, làm nhái nhãn hiệu cũng vì thế mà càng gay gắt hơn, phổ biến hơn và tinh vi hơn.

Trước thực trạng như vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ nói chung và nâng cao hiệu quả của các hoạt động chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu nói riêng là việc làm rất cấp bách, đòi hỏi sự chung sức từ rất nhiều phía, không chỉ trông chờ vào các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mà các doanh nghiệp là chủ sở hữu nhãn hiệu và người tiêu dùng cũng cần tham gia vào công cuộc đấu tranh chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu tại Việt Nam.

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 30/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí