bán nhà không được dùng để mua một tài sản khác thì trong điều kiện nguyên tắc thay thế được thừa nhận, chính số tiền bán nhà là tài sản thay thế.
Như Chương II đã phân tích, việc không có khái niệm về tài sản thay thế đã dẫn đến việc theo quy định của pháp luật, việc chuyển dịch, trao đổi tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân sẽ biến các tài sản riêng này trở thành tài sản chung vì quyền sở hữu thực chất được chuyển giao trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, trên thực tế áp dụng pháp luật, do cảm tính, việc áp dụng xác định các tài sản có được do chuyển dịch, trao đổi tài sản riêng được thực hiện rất khác nhau. Có trường hợp các tài sản này được coi là tài sản chung do quyền sở hữu thực chất được chuyển giao trong thời kỳ hôn nhân. Có trường hợp các tài sản này lại được coi là tài sản riêng vì có nguồn gốc từ tài sản riêng.
Như vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên, cùng với việc sử dụng phương pháp loại trừ trong xác định tài sản chung của vợ chồng, cần quy định rõ các tài sản thay thế của tài sản riêng sẽ thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung đối với những quy định còn bất cập hiện nay bao gồm:
- Sửa đổi quy định về độ tuổi kết hôn tại khoản 1, Điều 9 Luật HNGĐ:
Điều 9 Luật HNGĐ năm 2000 quy định nam từ 20 tuổi trở lên và nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn. Theo đó, nam được tính là 20 tuổi bắt đầu từ ngày đầu tiên sau khi tròn 19 tuổi và tương tự như vậy, nữ được coi là đạt tuổi 18 bắt đầu từ ngày đầu tiên sau khi tròn 17 tuổi. Trong khi đó, Khoản 1, Điều 20, BLDS năm 2005 của nước ta quy định “Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu
cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác” Như vậy, đặt trong mối quan hệ với quy định về tuổi kết hôn của Luật HNGĐ năm 2000, ta thấy có sự mâu thuẫn nảy sinh trong trường hợp nữ tròn 17 tuổi cho đến khi tròn 18 tuổi. Trong trường hợp này, BLDS năm 2005 thì quy định phải có người đại diện theo pháp luật đồng ý khi thực hiện các giao dịch, trừ các giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, trong khi đó Luật HNGĐ năm 2000 lại cho phép nữ được quyết định xác lập quan hệ vợ chồng. Mặc dù trong quá trình áp dụng pháp luật, các cơ quan đều vận dụng nguyên tắc, quy định tại luật chuyên ngành có giá trị cao hơn nên thường áp dụng Luật HNGĐ đối với việc kết hôn của hai bên nam và nữ. Tuy nhiên, để đảm bảo sự thống nhất pháp luật, thiết nghĩ hệ thống pháp luật Việt Nam nên có sự sửa đổi cho phù hợp.
Trong trường hợp này, theo tôi nên sửa lại quy định về độ tuổi kết hôn của Luật HNGĐ. Mặc dù, theo lý lẽ của các nhà lập pháp về hôn nhân và gia đình thì nữ từ đủ 17 tuổi đã có sự phát triển thể chất đủ chín mùi cho việc thiết lập quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, theo chúng tôi dù sự phát triển thể chất đã đủ chín mùi, nhưng đến đủ 18 tuổi, một người mới được coi là có đủ suy nghĩ chín chắn, do đó mới có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Trong khi đó, hôn nhân là một vấn đề trọng đại, có ảnh hưởng đến suốt cả cuộc đời con người. Việc quyết định vấn đề lớn như vậy cần có sự trưởng thành đầy đủ. Pháp luật chỉ nên công nhận quan hệ vợ chồng của những người đã có sự trưởng thành đầy đủ với những quyết định chín chắn.
Liên quan đến vấn đề này, pháp luật cũng cần có quy định rõ thời điểm công nhận quan hệ vợ chồng đối với những trường hợp kết hôn trước tuổi quy định, nhưng đến nay hai bên đã đủ tuổi kết hôn, đã có con chung và tài sản chung. Về vấn đề này, Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao đã xác định “Đối với những trường hợp kết hôn khi một bên hoặc cả hai bên chưa đến tuổi kết hôn là vi phạm điều kiện kết hôn quy định tại điểm 1 Điều 9. Tuy nhiên, tùy từng
trường hợp mà quyết định như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Một Số Vướng Mắc Trong Áp Dụng Các Căn Cứ Xác Lập Quyền Sở Hữu Chung Của Vợ Chồng
- Căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - 10
- Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Căn Cứ Xác Lập Quyền Sở Hữu Chung Của Vợ Chồng:
- Căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - 13
- Căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà một bên hoặc cả hai bên vẫn chưa đến tuổi kết hôn thì quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật.
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật cả hai bên tuy đã đến tuổi kết hôn, nhưng cuộc sống của họ trong thời gian đã qua không có hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng thì quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật cả hai bên đã đến tuổi kết hôn, trong thời gian đã qua họ chung sống bình thường, đã có con, có tài sản chung thì không quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật”
Như vậy, có thể nói pháp luật đã có sự giải quyết mềm dẻo trong trường hợp cả hai bên đã đến tuổi kết hôn và trong thời gian đã qua họ chung sống bình thường, đã có con, có tài sản chung thì pháp luật thừa nhận quan hệ vợ chồng của họ. Tuy nhiên, Nghị quyết không nói rõ thời điểm nào được coi là thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng trong trường hợp này. Quan hệ vợ chồng của họ được xác lập kể từ thời điểm chung sống với nhau như vợ chồng hay từ thời điểm họ đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật hay từ thời điểm họ tiến hành đăng ký kết hôn? Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định quyền sở hữu của họ đối với các tài sản của các bên, buộc các nhà làm luật cần có những quy định rõ ràng, cụ thể.
Theo quan điểm của cá nhân, thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng trong trường hợp này nên được xác định là thời điểm họ chung sống với nhau như vợ chồng (thực hiện kết hôn trái pháp luật) để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên.
- Quy định bổ sung những tiêu chí cụ thể để đánh giá thế nào là lừa dối trong kết hôn.
Mặc dù khoản 1, Điều 132, BLDS 2005 đã có xác định “Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó” và Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của TANDTC cũng đã đưa ra một số ví dụ về lừa dối. Tuy nhiên, khái niệm về lừa dối của Bộ Luật Dân sự là một định nghĩa rất chung và khó áp dụng, đặc biệt trong quan hệ hôn nhân gia đình còn các ví dụ của Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP thì lại không bao quát hết và không đầy đủ. Ví dụ A muốn kết hôn với B vì tin rằng B giàu có và B cũng cố ý làm ra vẻ giàu có (dù thực ra rất nghèo) để A chấp nhận kết hôn với mình. Trong trường hợp này rất khó có thể nói rằng A có quyền yêu cầu hủy hôn nhân do có sự lừa dối. Càng không thể xin hủy hôn nhân do có sự lừa dối, nếu A tin rằng B là một chàng trai tơ và B cũng cố tình làm ra vẻ như vậy, dù trên thực tế, B đã có một (thậm chí nhiều) đời vợ.
- Có quy định cụ thể về chủ thể thực hiện hành vi cưỡng ép kết hôn.
Về vấn đề này, khoản 5, Điều 8, Luật HNGĐ năm 2000 đã ghi nhận “ Cưỡng ép kết hôn là hành vi buộc người khác phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ”. Tuy nhiên đã không có quy định cụ thể về chủ thể thực hiện hành vi cưỡng ép kết hôn. Thực tế này đã dẫn đến hai cách hiểu khác nhau với những quy định khác nhau trong các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao thì cưỡng ép kết hôn được coi là hành vi của một người thứ ba chứ không phải của một trong hai bên kết hôn nhằm buộc một bên phải kết hôn với một người nào đó. Trường hợp một bên chấp nhận kết hôn do chịu sức ép của bên kia được coi là ép buộc kết hôn chứ không phải là cưỡng ép kết hôn. Còn theo Bộ Luật hình sự thì lại ghi nhận tội cưỡng ép kết hôn là bất cứ ai “cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ”. Theo tôi, pháp luật về hôn nhân gia đình nên có sự sửa
đổi theo hướng chủ thể thực hiện hành vi cưỡng ép kết hôn là bất cứ ai để tránh việc có quá nhiều định nghĩa, khái niệm trong khi chỉ khác nhau về chủ thể
Thứ năm, bổ sung những quy định mới nhằm điều chỉnh những vấn đề phát sinh trong thực tế đời sống nhưng chưa được dự liệu trong pháp luật hiện hành, bao gồm:
- Bổ sung quy định cụ thể về quan hệ vợ chồng trong trường hợp một bên bị tuyên bố là đã chết nhưng nay lại trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống.
Điều 83, BLDS năm 2005 xác định “Quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ các trường hợp sau đây:
- Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 78 BLDS. Khi đó, quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật
- Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật
Điều 26 Luật HNGĐ năm 2000 cũng có quy định “Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân đương nhiên được khôi phục; trong trường hợp vợ hoặc chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật”
Như vậy, liên quan đến sự tồn tại của quan hệ vợ chồng khi một người bị tuyên bố là đã chết mà trở về, có mấy trường hợp được đặt ra như sau:
Thứ nhất, khi Toà án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết, nếu vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì
quan hệ hôn nhân đương nhiên được khôi phục. Tuy nhiên, pháp luật lại không có quy định cụ thể về việc quan hệ này sẽ được khôi phục như thế nào, quan hệ vợ chồng trong thời gian một bên bị tuyên bố là đã chết nên được xác định ra sao: trong khoảng thời gian này, quan hệ vợ chồng giữa hai bên có còn tồn tại hay không.
Thứ hai, nếu vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn theo quy định tại Điều 78 BLDS năm 2005, thì có sự không thống nhất giữa các quy định của BLDS năm 2005 và Luật HNGĐ năm 2000. Theo quy định của BLDS năm 2005 thì quyết định ly hôn đó vẫn có hiệu lực khi người bị tuyên bố là đã chết nay trở về dù rằng người đó đã kết hôn với người khác hay chưa. Trong khi đó Luật HNGĐ năm 2000 chỉ công nhận trong trường hợp vợ hoặc chồng của người đó đã kết hôn với người khác.
Thứ ba, nếu vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân sau có hiệu lực. Tuy nhiên, pháp luật không xác định cụ thể thời điểm chất dứt của quan hệ hôn nhân trước đó, tức là quan hệ hôn nhân của người bị tuyên bố là đã chết. Thời điểm đó có thể là thời điểm người đó bị tuyên bố là đã chết hoặc thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân sau của vợ hoặc chồng người đó.
Theo quan điểm của cá nhân, trong các trường hợp trên, pháp luật nên coi quan hệ vợ chồng đã chấm dứt kể từ khi có quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết. Sau khi họ trở về, nếu họ muốn tiếp quan hệ hôn nhân thì lại làm thủ tục đăng ký kết hôn lại và xác lập quan hệ vợ chồng mới với những quyền sở hữu chung của vợ chồng mới. Vì thực sự, trong thời gian một bên bị coi là đã chết, hai bên vợ chồng thực sự đã không còn liên lạc gì với nhau, không có sự giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển nữa. Mọi vấn đề trong cuộc sống kể cả việc tiến hành lao động, sản xuất, kinh doanh, thực hiện các giao dịch hàng ngày ... đều do tự mỗi cá nhân quyết định không có ảnh hưởng và liên quan gì đến bên kia.
Do đó, về mặt vật chất có thể coi như hai bên đã không còn có quan hệ vợ chồng trên thực tế. Về mặt tình cảm, nếu họ thực sự vẫn còn tình cảm với nhau, thì việc làm thủ tục đăng ký kết hôn lại cũng không hề ảnh hưởng gì. Như vậy, nếu pháp luật coi quan hệ vợ chồng của họ không còn tồn tại kể từ thời điểm có Quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì sẽ có thể giải quyết dứt điểm, rành mạch cả về vấn đề tài sản lẫn vấn đề tình cảm của trường hợp này.
- Bổ sung quy định về việc xin ly hôn của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự :
Điều 23, BLDS năm 2005 chỉ quy định “Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày”. Quy định này dẫn đến hai quan điểm khác nhau liên quan đến câu hỏi đặt ra là: Quan điểm thứ nhất thì cho rằng, ly hôn là một giao dịch mang tính chất phi tài sản trong khi đó người bị hạn chế năng lực hành vi chỉ bị kiểm soát để tránh sa vào những vụ phá tán tài sản. Vì vậy, ly hôn có thể được người này tự mình xác lập, thực hiện mà không cần có sự đồng ý của người đại diện. Quan điểm thứ hai thì cho rằng, ly hôn không chỉ ảnh hưởng tới nhân thân mà còn ảnh hưởng tới các quyền và nghĩa vụ tài sản của các bên. Vì vậy, người bị hạn chế năng lực hành vi không thể tự mình xác lập, thực hiện việc ly hôn. Luận văn cho rằng, việc hạn chế năng lực hành vi dân sự của một cá nhân là nhằm mục đích bảo vệ tài sản của gia đình và của những người liên quan dành cho những người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác. Chính vì vậy, để bảo đảm sự bền vững của gia đình, gắn bó trách nhiệm của các thành viên trong gia đình trong việc giúp đỡ những người này, pháp luật nên quy định rõ việc xin ly hôn của những người này cần phải có sự đồng ý của người đại diện. Tránh trường hợp, sau khi ly hôn theo ý chí của những người này, những người trong gia đình không quan tâm đến họ nữa, làm họ ngày càng đi tới tình trạng trầm
trọng hơn, tạo gánh nặng cho xã hội trong khi thực chất nếu không có quyết định ly hôn, gia đình vẫn có thể cố gắng giúp đỡ họ.
- Bổ sung quy định cụ thể về quyền sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền sở hữu trí tuệ:
Quyền sở hữu trí tuệ có thể được hiểu là thu nhập hoặc tài sản do vợ, chồng tạo ra. Chính vì vậy, theo pháp luật hôn nhân gia đình, quyền sở hữu trí tuệ cũng có thể nằm trong khối tài sản chung của vợ chồng nếu nó có được trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, Luật sở hữu trí tuệ 2005 lại không xác định vợ chồng là một loại chủ sở hữu của quyền sở hữu trí tuệ. Rõ ràng ở đây, không có sự thống nhất giữa hai hệ thống pháp luật.
Thực tế áp dụng pháp luật cho thấy, trong thực tiễn, người muốn sử dụng đối tượng của sở hữu trí tuệ thường chỉ làm việc với người tạo ra đối tượng của sở hữu trí tuệ, chứ không phải với cả vợ hoặc chồng của người đó. Tuy nhiên, một khi tác giả nhận được một khoản tiền nhuận bút hoặc thù lao về việc cho phép sử dụng đối tượng của sở hữu trí tuệ, thì khoản tiền ấy được đồng hóa với thu nhập do lao động hoặc với hoa lợi từ tài sản và, do đó, rơi vào khối tài sản chung của vợ và chồng. Còn bản thân đối tượng của sở hữu trí tuệ, như một tài sản vô hình, dù được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, vẫn được coi là tài sản của người sáng tạo ra; chỉ có người đó mới có các quyền tài sản đối với đối tượng của sở hữu trí tuệ.
Theo quan điểm cá nhân, quyền sở hữu trí tuệ mặc dù gắn liền với nhân thân, tuy nhiên, để tạo ra được những tác phẩm này, có sự đóng góp rất lớn của vợ, chồng, do các tài sản này chủ yếu được tạo ra do trí tuệ và chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố tinh thần. Trong khi đó, cuộc sống gia đình là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định yếu tố tinh thần của tác giả. Mặt khác, xét về lý thuyết mà nói, tác giả đã sử dụng trí tuệ để tạo ra tài sản (quyền sở hữu trí tuệ) nên đương nhiên tài sản phải thuộc quyền sở hữu chung của vợ chồng. Vì vậy, theo quan điểm của luận văn để đảm bảo quyền lợi cho các bên nên quy định rõ kể cả trong trường