Căn cứ ly hôn theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qua thực tiễn áp dụng pháp luật tại tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng - 14

kiểm tra TAND thành phố Đà Nẵng có 6 người trong đó một trưởng phòng và những thẩm tra viên, chuyên viên pháp lý có trình độ chuyên môn vững vàng. Hàng năm phòng Giám đốc kiểm tra đã kiểm tra toàn bộ các hồ sơ vụ án của 07 TAND quận, huyện, giúp UBTP TAND thành phố phát hiện những sai sót trong giải quyết án ly hôn để kịp thời rút kinh nghiệm, uốn nắn sửa chữa những sai sót đó. Khi phát hiện có sai sót, thẩm tra viên đã tham mưu cho Chánh án kháng nghị những quyết định, bản án ly hôn đã có hiệu lực pháp luật để UBTP xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm.

Trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, thì nhiệm vụ của UBTP và phòng Giám đốc kiểm tra TAND thành phố Đà Nẵng càng nặng nề hơn. Số lượng thẩm tra viên chuyên trách về án HN & GĐ nói chung và án ly hôn nói riêng thường chỉ có 02 người. Trong khi đó hàng năm phải đảm bảo nghiên cứu, kiểm tra một số lượng án lớn của TAND cấp quận, huyện. Việc phát hiện những sai sót trong giải quyết án ly hôn còn hạn chế. Như vậy, việc tăng cường cho hoạt động giám đốc kiểm tra của TAND thành phố Đà Nẵng về biên chế và trang thiết bị phục vụ cho công tác là yêu cầu tất yếu khách quan.

Tăng cường hoạt động giám đốc kiểm tra của TAND thành phố Đà Nẵng đối với hoạt động giải quyết án ly hôn cần phải thực hiện như sau:

- Kiện toàn tổ chức UBTP của TAND thành phố Đà Nẵng, ngoài các chức danh bắt buộc theo quy định của pháp luật là Chánh án, Phó chánh án, UBTP cần phải có thêm những Thẩm phán giỏi về trình độ, nghiệp vụ xét xử và có bề dày kinh nghiệm để hướng dẫn áp dụng đúng pháp luật trong giải quyết án ly hôn.

- Kiện toàn về tổ chức, tăng số lượng thẩm tra viên và chuyên viên cho phòng giám đốc kiểm tra của TAND thành phố Đà Nẵng. Các thẩm tra viên, chuyên viên pháp lý phải là những người có trình độ lý luận và có kinh nghiệm nghiệp vụ, để có thể giúp việc tốt cho UBTP trong công tác giám đốc

án và hướng dẫn việc giải quyết án ly hôn cho các tòa án quận, huyện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

- Công tác nghiên cứu hồ sơ vụ án trong hoạt động giám đốc theo hướng khoa học, hiệu quả cao, thường xuyên tổ chức các hội thảo, đẩy mạnh công tác nghiên cứu các đề tài khoa học ở cấp cơ sở về áp dụng pháp luật trong giải quyết án ly hôn, tạo cơ sở lý luận cho công tác thực tiễn.

- Công tác giám đốc kiểm tra án là hoạt động thường xuyên, muốn làm tốt công tác này, cần phải làm tốt các giải pháp nêu trên. Qua công tác giám đốc kiểm tra án có tác dụng uốn nắn, khắc phục những sai sót trong quá trình áp dụng pháp luật về giải quyết án ly hôn. Do vậy, cần coi trọng và quan tâm công tác giám đốc kiểm tra án, đây chính là một trong những biện pháp nâng cao hiệu quả trong giải quyết án ly hôn của TAND trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ngày càng tốt hơn.

Hiện nay, phòng giám đốc kiểm tra án của TAND thành phố Đà Nẵng mỗi năm kiểm tra 02 lần đối với tất cả các loại án của TAND các quận, huyện. Sau đó, sẽ báo cáo và tổng hợp rút kinh nghiệm đối với những sai sót của TAND các cấp trong phạm vi toàn ngành và có nhận xét đánh giá đối với từng đơn vị tòa án. Đây là hoạt động rất quan trọng nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các loại án nói chung, án ly hôn nói riêng.

3.2.4. Nâng cao năng lực trình độ chuyên môn của Hội thẩm nhân dân

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Hội thẩm nhân dân nhân dân là chế định tiến bộ của pháp luật Việt Nam. Lần đầu tiên được Hiến pháp năm 1946 ghi nhận với tên gọi Phụ thẩm nhân dân. “Phụ thẩm nhân dân được tham gia góp ý kiến nếu về việc tiểu hình và cùng quyết định với Thẩm phán là việc đại hình” (Điều 65 Hiến pháp năm 1956). Với quy đinh này, hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam được đảm bảo dân chủ, nhân dân được đại diện tham gia. Hiến pháp năm 1959 trao cho Hội thẩm nhân dân (HTND) có quyền năng

lớn hơn đó là “Khi xét xử Thẩm phán và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 130). Việc tham gia của HTND vào hoạt động xét xử của Tòa án là thể hiện tính ưu việt của nền tư pháp ở Việt Nam. Đa số các HTND tham gia hoạt động xét xử đã phát huy được vai trò là “người đại diện của nhân dân”. Tuy nhiên, trong thời gian qua việc tham gia xét xử của HTND đối với các loại án nói chung, án về ly hôn nói riêng còn rất nhiều hạn chế, nhất là trình độ kiến thức pháp luật. HTND đa số là kiêm nhiệm nên thời gian dành cho nghiên cứu hồ sơ còn ít, khi tham gia xét xử việc thẩm vấn tại phiên tòa chủ yếu do Thẩm phán thực hiện. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả của HTND trong quá trình tham gia xét xử tại Tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng cần tăng cường bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho HTND. Cần có những đợt tập huấn, tọa đàm về các chủ đề pháp luật và tạo điều kiện để HTND tham gia. Hiện nay, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng hàng năm vẫn có các lớp tập huấn cho tất cả HTND trong toàn ngành. Đặc biệt Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ban hành cuốn sổ tay HTND để hệ thống các kỹ năng cho họ khi tham gia phiên tòa.

Căn cứ ly hôn theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qua thực tiễn áp dụng pháp luật tại tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng - 14

Thực hiện yêu cầu của cải cách tư pháp. Nghị quyết 08/NQ/TW ngày 02.01.2004 chỉ rõ: Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế lựa chọn bầu cử, bồi dưỡng, quản lý HTND nhằm đề cao trách nhiệm và vai trò của HTND trong công tác xét xử.

Hiện nay cả hai cấp xét xử của Tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có 215 HTND. Các HTND thường xuyên được tập huấn nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ.

Một vấn đề nữa là hiện nay đa số các HTND đều kiêm nhiệm, và tính chất công việc rất bận rộn. Vì vậy, thời gian để họ nghiên cứu hồ sơ và nắm vững nội dung vụ án thường rất hạn chế. Thêm vào đó do hạn chế về tài chính nên chế độ đối với HTND khi tham gia nghiên cứu hồ sơ và xét xử tại phiên

tòa chưa tương xứng với công sức họ bỏ ra. Nên chăng thời gian tới cần có những chế độ, chính sách hợp lý hơn để HTND có thể yên tâm thực hiện tốt vai trò của mình. Đặc biệt cần có một số HTND chuyên trách để ngày càng nâng cao tính dân chủ và hiệu quả trong công tác giải quyết án nói chung và quá trình áp dụng pháp luật về ly hôn nói riêng.

3.2.5. Tăng cường phương tiện và điều kiện cơ sở vật chất cho các Tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố và hoàn thiện chế độ chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án

Để đảm bảo hiệu quả cho hoạt động xét xử của các Tòa án trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, thì cần quan tâm đến việc tăng cường điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc là một yêu cầu cấp thiết. Mặc dù đã được Nhà nước quan tâm và đổi mới, nhưng đến nay kinh phí hoạt động của ngành TAND nói chung và các TAND của thành phố Đà Nẵng nói riêng vẫn còn hạn hẹp, điều kiện cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho công tác của Thẩm phán trong giải quyết án ly hôn còn hạn chế. Hoạt động xét xử của các Tòa án do vậy cũng bị ảnh hưởng nhất định. Như những vụ án phức tạp đáng ra phải xét xử trong nhiều ngày nhưng do thiếu kinh phí nên thường phải rút ngắn thời gian xét xử, ảnh hưởng tới việc xem xét và đánh giá chứng cứ. Hay khi tiến hành định giá tài sản hoặc xét xử lưu động, nhất là ở các Tòa án cấp quận, huyện, do kinh phí hạn hẹp, không có phương tiện vận chuyển đồ dùng phục vụ cho công tác nghiệp vụ của Thẩm phán và cán bộ Tòa án còn thiếu, các Thẩm phán thường gặp nhiều khó khăn trong việc tìm tài liệu, văn bản pháp luật. Văn bản pháp mới ban hành chưa đầy đủ và thường xuyên. Công tác theo dõi hồ sơ, số liệu thụ lý vụ án và lưu trữ được thực hiện thủ công, do đó không đáp ứng được yêu cầu của công việc ngày càng đa dạng và phức tạp. Vì vậy, cần tăng cường điều kiện về phương tiện cơ sở vật chất cho các TAND trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, cụ thể như sau:

- Hiện đại hóa các phương tiện làm việc và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác xét xử. Nhà nước cần có quy định rõ về việc cấp phát tài liệu và văn bản pháp luật cho Thẩm phán TAND.

- Tăng cường việc cấp tài liệu, sách báo về khoa học pháp lý cho các Thẩm phán và cán bộ tòa án. Nhất là các tạp chí lý luận chuyên ngành để họ có thể kịp thời nắm bắt được những thành tựu và sự phát triển của khoa học pháp lý trong tình hình mới.

- Trang bị cơ sở vật chất và hiện đại hóa phòng xét xử của các TAND, (hiện nay một số phòng xét xử của TAND trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã được lắp đặt hệ thông camera). Phòng xét xử phải thể hiện được tính nghiêm trang, tạo ra ý thức tin tưởng vào công lý cho những người tham dự phiên tòa. Công tác bảo vệ cho Tòa án và các phiên tòa cũng cần phải được chú trọng, tránh hiện tượng gây rối tại phiên tòa.

Bên cạnh việc tăng cường điều kiện, phương tiện cơ sở vật chất. Nhà nước cần phải chú trọng đến việc hoàn thiện các chế độ chính sách đối với Thẩm phán và cán bộ TAND. Trong thời gian qua, chính sách đối với Thẩm phán và cán bộ TAND đã được quan tâm, Thẩm phán có thang bậc lương riêng, được hưởng phụ cấp trách nhiệm, để họ yên tâm công tác và đầu tư nhiều thời gian vào công tác chuyên môn.

Nghề Thẩm phán là một nghề có tính đặc thù riêng, vất vả, khó khăn, phức tạp và chịu nhiều áp lực. Đặc biệt có khi còn nguy hiểm cho bản thân và gia đình. Do vậy, cần xây dựng cơ chế bảo vệ đối với Thẩm phán và gia đình họ, xây dựng quy định về chế độ bảo hiểm để họ được hưởng bồi thường khi gặp rủi ro trong cuộc sống và trong sự nghiệp.

Như vậy, hoàn thiện chế độ, chính sách đối với Thẩm phán và cán bộ Tòa án, đồng thời tăng cường điều kiện, phương tiện cơ sở vật chất cho các TAND trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, nhất là đối với Tòa án nhân dân cấp quận, huyện cần được quan tâm hơn nữa, nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết các loại án nói chung, án ly hôn nói riêng.

KẾT LUẬN


Việc thiết lập gia đình bằng kết hôn và hôn nhân đã trở thành hiện tượng xã hội mang tính tất yếu khách quan. Nếu kết hôn là một hiện tượng xã hội bình thường của quan hệ hôn nhân thì ly hôn là mặt trái của quan hệ hôn nhân, nhưng lại không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân tan vỡ. Ly hôn được coi là biện pháp giải phóng cá nhân ra khỏi quan hệ vợ chồng để họ thoát khỏi những xung đột trong quan hệ hôn nhân khi đã thực sự tan vỡ.

Trong hơn 10 năm thực hiện và áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, đã xây dựng và bảo vệ vững chắc các quan hệ Hôn nhân và gia đình theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, hơn 10 năm qua cùng với sự phát triển và giao lưu kinh tế - văn hóa- xã hội của khu vực và thế giới, nhiều chế định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 trong đó có chế định ly hôn không còn phù hợp với tình hình mới nữa. Vì vậy, thời gian qua Quốc hội đã tiến hành lấy ý kiến về dự thảo sửa đổi bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình nhằm kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với tình hình thực tế.

Trong khuôn khổ của Luận văn, tác giả đã tìm hiểu nghiên cứu về lịch sử phát triển của quy định về căn cứ ly hôn trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Đi sâu làm rõ căn cứ ly hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình hiện hành. Từ đó làm rõ quá trình áp dụng pháp luật trong giải quyết án ly hôn tại Tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Đồng thời đưa ra những ý kiến nhằm sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về căn cứ ly hôn, và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết án ly hôn tại Tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

Tác giả mong muốn rằng Luận văn này cùng với các công trình nghiên

cứu khoa học khác có thể góp phần trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật hôn nhân và gia đình nói chung, chế định ly hôn nói riêng. Đồng thời Luận văn có thể được áp dụng trong công tác nghiên cứu, giảng dạy tại các trường Đại học chuyên ngành Luật cũng như sử dụng vào thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết án ly hôn tại Tòa án nói chung và Tòa án trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. C. Mác. Ph. Ăng ghen (1978), “Bản dự Luật về ly hôn”, Tập 1, NXB sự thật Hà Nội.

2. C. Mác - Ph. Ăng ghen, “Toàn tập”, Tập 1, tr. 106 - 109.

3. Bộ luật dân sự năm 2005.

4. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2003.

5. Dân luật giản yếu Bắc Kỳ.

6. Dân luật giản yếu Trung Kỳ.

7. Dân luật giản yếu Nam Kỳ.

8. Nguyễn Ngọc Điện (2002), “Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình”, tập 1, NXB Trẻ - Thành phố Hồ Chí Minh.

9. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.

10. Hoàng Việt Luật Lệ (Luật Gia Long).

11. Lê Nin (1980), “Về quyền dân tộc tự quyết”, toàn tập, Tập 25, NXB Tiến bộ, Maxcơva.

12. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.

13. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.

14. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

15. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002.

16. Vũ Văn Mẫn, “Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử”, Quyển thứ nhất, Tập 2, Sài Gòn 1973.

17. Nhà xuất bản Đà Nẵng (2010), “Đà Nẵng toàn cảnh”.

18. Nhà xuất bản Khoa học và xã hội (1994), “Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII”.

19. Đinh Mai Phương (chủ biên), “Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000”, NXB Chính trị quốc gia.

20. Lê Thị Sơn (Chủ biên), “Quốc triều hình luật. Lịch sử hình thành, nội dung và giá trị”, NXB Khoa học và Xã hội, Hà Nội 2004.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/12/2022