Từ những thực tế hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán, tác giả đã cố gắng chọn lọc, đưa những vấn đề về những giao dịch bảo đảm điển hình để nghiên cứu, đánh giá và phân tích.
Với sự tiếp thu ý kiến từ chính những cán bộ nghiệp vụ hoạt động trong các tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán lớn, có tầm ảnh hưởng trên thị trường, luận văn hy vọng sẽ mang tới những góc nhìn mới, sâu sắc và thiết thực về giao dịch bảo đảm trong hoạt động của những doanh nghiệp đặc thù này; đặc biệt là các vấn đề rủi ro pháp lý liên quan đến các giao dịch bảo đảm này. Từ đó, nhận định những bất cập trong hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh những giao dịch bảo đảm đặc thù này. Qua đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về cầm cố tài sản.
2. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam, bình luận những điểm phù hợp và chưa phù hợp. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng phương pháp tổng hợp quy định pháp luật, thống kê thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật về cầm cố tài sản tại các tổ chức tín dụng để đánh giá khái quát, chỉ ra những rủi ro mà tổ chức tín dụng có thể gặp phải khi thực hiện các giao dịch này.
3. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương như sau:
Chương 1: Các vấn đề lý luận về cầm cố tài sản.
Chương này tác giả trình bày khái quát về khái niệm, đặc điểm của giao dịch bảo đảm và tài sản bảo đảm nói chung và cầm cố tài sản nói riêng; vai trò của giao dịch cầm cố tài sản đối với hoạt động tín dụng, công ty chứng khoán.
Chương 2: Quy định của pháp luật về cầm cố tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán.
Chương này tác giả nêu và phân tích làm rõ các quy định của pháp luật về cầm cố tài sản theo những loại tài sản nhận cầm cố; trong đó tập trung vào ba nội dung: Bản chất giao dịch; Hiệu lực của giao dịch và Xử lý tài sản cầm cố.
Có thể bạn quan tâm!
- Cầm cố tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng công ty chứng khoán tại Việt Nam - 1
- Vai Trò Của Cầm Cố Tài Sản Trong Hoạt Động Của Tổ Chức Tín Dụng
- Vai Trò Của Cầm Cố Tài Sản Trong Hoạt Động Của Công Ty Chứng Khoán
- Cầm Cố Tài Sản Trong Hoạt Động Của Tổ Chức Tín Dụng
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Chương 3: Rủi ro cầm cố tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán và giải pháp.
Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm và thực tiễn áp dụng trong hoạt động cấp tín dụng, tác giả tổng hợp, đưa ra những dạng rủi ro đối với giao dịch cầm cố tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán. Từ đó, đề xuất giải pháp hạn chế rủi ro.
CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẦM CỐ TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm của giao dịch bảo đảm
1.1.1. Khái niệm giao dịch bảo đảm
Giao dịch bảo đảm, hay các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là chế định pháp lý đã xuất hiện trong những đạo luật cổ xưa nhất và luôn gắn liền với sự phát triển, biến đổi của các giao dịch dân sự.
Theo nhiều nhà nghiên cứu [19], giữa hai hệ thống pháp luật Civil Law và Common Law, cách thức đề cập và quy định về giao dịch bảo đảm, các biện pháp báo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là khác nhau.
Theo đó, với các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Civil Law, pháp luật có xu hướng quy định liệt kê các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mà không đưa ra khái niệm chung về giao dịch bảo đảm.
Các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Common Law thì không theo xu hướng quy định hình thức mà hướng tới chức năng của các biện pháp bảo đảm hay “lợi ích bảo đảm”. Bởi vậy, hệ thống pháp luật Common Law công nhận cả những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác như: gửi bán thương mại; chuyển giao nợ, cho thuê tài sản dài hạn, bán có bảo lưu quyền sở hữu; mua trả chậm, trả dần; chuyển nhượng quyền đòi nợ; quyền cầm giữ…
Khoản 1, Điều 323 về “Đăng ký giao dịch bảo đảm”, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm được quy định tại khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này.”
Điều 318 về “Giao dịch bảo đảm”, Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng quy định theo hướng liệt kê các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm:
a) Cầm cố tài sản;
b) Thế chấp tài sản;
c) Đặt cọc;
d) Ký cược; đ) Ký quỹ;
e) Bảo lãnh;
g) Tín chấp. [30, Điều 318]
Trước đó, tại Bộ luật Dân sự năm 1995, khái niệm giao dịch bảo đảm không được đề cập đến. Bộ luật Dân sự năm 1995 chỉ quy định theo hướng liệt kê các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Khoản 1, Điều 2 về “Giải thích từ ngữ”, Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về Bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng quy định:
“ 1. Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay”. [12, khoản 1, Điều 2]
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về Giao dịch bảo đảm thay thế Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về Bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, nhưng cũng không đưa ra một định nghĩa cụ thể về giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên theo cách thức quy định tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, có thể hiểu giao dịch bảo đảm cũng vẫn là một dạng giao dịch dân sự, gắn liền với mỗi biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Có thể tạm thời khái quát về giao dịch bảo đảm như sau: Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự mà bên bảo đảm dùng tài sản hoặc không dùng tài sản để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của chính mình hoặc bên thứ ba đối với bên nhận bảo đả; nếu đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ được bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thoả thuận thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm hoặc yêu cầu bên bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo thoả thuận.
1.1.2. Đặc điểm của giao dịch bảo đảm
Giao dịch bảo đảm tiền vay có những đặc điểm chung của giao dịch dân sự và những đặc điểm đặc thù như sau:
Thứ nhất, giao dịch bảo đảm mang tính chất bổ sung cho nghĩa vụ chính:
Giao dịch bảo đảm vốn được sử dụng để bảo đảm cho việc thực hiện một, một số nghĩa vụ dân sự nào đó. Bởi vậy, về mặt logic, giao dịch bảo đảm không tồn tại độc lập mà luôn phụ thuộc và gắn liền với nghĩa vụ được bảo đảm. Cũng vì vậy mà giao dịch phát sinh nghĩa vụ được bảo đảm được gọi là giao dịch chính, còn giao dịch bảo đảm được gọi là giao dịch phụ. Việc giao dịch bảo đảm bị vô hiệu không làm ảnh hưởng tới hiệu lực của giao dịch chính. Nếu theo chiều ngược lại, thông thường, giao dịch chính vô hiệu thì giao dịch phụ vô hiệu theo, nhưng trong trường hợp giao dịch phụ là giao dịch bảo đảm thì pháp luật quy định ngoại lệ. Khoản 2, Điều 410 về “Hợp đồng dân sự vô hiệu”, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“2. Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này không áp dụng đối với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.” [30, khoản 2, Điều 410]
Thứ hai, giao dịch bảo đảm đều có mục đích nhằm nâng cao trách nhiệm của các bên trong giao dịch dân sự. Đây là bản chất của giao dịch bảo đảm, buộc các bên phải đề cao trách nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo thoả thuận. Trong một số trường hợp, việc sử dụng giao dịch bảo đảm còn nhằm mục đích ràng buộc trách nhiệm giao kết giao dịch dân sự của các bên, ví dụ như trường hợp các bên đặt cọc để bảo đảm cho nghĩa vụ giao kết hợp đồng chính thức, bên nào từ chối giao kết hợp đồng thì có thể mất cọc, trả lại cọc đồng thời chịu phạt cọc như đã thoả thuận.
Thứ ba, đối tượng của giao dịch bảo đảm là các lợi ích vật chất.
Đối tượng của giao dịch bảo đảm là các lợi ích vật chất là phù hợp với bản chất giao dịch bảo đảm như đã nêu. Thông thường, tham gia giao dịch dân sự, các bên đều hướng tới lợi ích vật chất nhất định. Do vậy, để trở thành một kênh dự phòng cho giao dịch chính, giao dịch phụ (mà ở đây là giao dịch bảo đảm) cũng phải mang lợi ích vật chất, xuất phát từ quy luật ngang giá trong quan hệ
tài sản. Hiện tại, trong 7 biện pháp bảo đảm được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005, chỉ có biện pháp tín chấp là khó lý giải theo logic này.
Điều 372 về “Bảo đảm bằng tín chấp của tổ chức chính trị - xã hội”, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“Tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở có thể bảo đảm bằng tín chấp cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo quy định của Chính phủ.” [30, Điều 372]
Theo hướng dẫn tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về Giao dịch bảo đảm, bên tín chấp không có bất kỳ nghĩa vụ vật chất nào đối với bên nhận tín chấp. Mặc dù có thể xác định là dạng bảo đảm đối nhân, nhưng tín chấp khác hoàn toàn với biện pháp bảo đảm bằng bảo lãnh; khi mà bên bảo lãnh có nghĩa vụ trả nợ thay cho bên có nghĩa vụ được bảo đảm, đồng thời, bên bảo lãnh phải sử dụng toàn bộ tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh.
Thứ tư, giao dịch bảo đảm có phạm vi bảo đảm không vượt quá phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm.
Điều 319 về “Phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“Nghĩa vụ dân sự có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không có thoả thuận và pháp luật không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại.” [30, Điều 319]
Theo đó, trong mọi trường hợp, phạm vi của giao dịch bảo đảm đều phụ thuộc vào phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm trong giao dịch chính. Giả sử trường hợp hợp đồng mua bán hàng hoá, giao dịch chính làm phát sinh rất nhiều nghĩa vụ như: Nghĩa vụ thanh toán tiền hàng, Nghĩa vụ thanh toán tiền lãi phát sinh do chậm thanh toán tiền hàng , Nghĩa vụ chi trả chi phí bảo hành, bảo trì hàng hoá,... Nhưng nếu trong thoả thuận bảo đảm, các bên chỉ xác định nghĩa vụ được
bảo đảm là một, một số các nghĩa vụ trong tất cả các nghĩa vụ trong giao dịch chính thì phạm vi bảo đảm chỉ giới hạn trong phạm vi một hoặc một số nghĩa vụ được bảo đảm này.
Mặc dù, trong nhiều trường hợp, giá trị tài sản bảo đảm có thể lớn hơn rất nhiều so với giá trị nghĩa vụ được bảo đảm.
Thứ năm, tính chất của giao dịch bảo đảm được cụ thể hoá khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ được bảo đảm.
Với tính chất dự phòng, tăng cường trách nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ đã thoả thuận của các bên, nếu các nghĩa vụ đều được tôn trọng và thực hiện đúng thoả thuận thì đương nhiên không cần áp dụng thực tế các biện pháp bảo đảm. Theo nguyên tắc, từ thời điểm phải thực hiện nghĩa vụ, mà bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ thì có cơ sở để xác định bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ; do đó, bên nhận bảo đảm cần áp dụng biện pháp bảo đảm đã thoả thuận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Đối với nhóm các biện pháp bảo đảm đối vật, Điều 56 về “Các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm”, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP quy định các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm gồm:
1. Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
2. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
3. Pháp luật quy định tài sản bảo đảm phải được xử lý để bên bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác.
4. Các trường hợp khác do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định. [13, Điều 56]
1.2. Phân loại giao dịch bảo đảm
Dựa trên những căn cứ khác nhau, sẽ có nhiều cách phân loại giao dịch bảo đảm.
1.2.1. Bảo đảm đối nhân và bảo đảm đối vật
Trong hệ thống pháp luật Civil Law, về mặt lý thuyết pháp lý, căn cứ vào đối tượng của giao dịch, giao dịch bảo đảm thường phân biệt những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thành hai nhóm: Giao dịch bảo đảm đối vật và giao dịch bảo đảm đối nhân.
Giao dịch bảo đảm đối vật là giao dịch bảo đảm mà quyền, lợi ích bảo đảm của bên nhận bảo đảm được xác lập và căn cứ vào một, một số vật (hoặc rộng ra là tài sản gồm: Vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản, như quy định tại Điều 163 về “Tài sản”, Bộ luật Dân sự năm 2005 của Việt Nam); trong đó, thông thường, tài sản này thuộc sở hữu của Bên bảo đảm, có thể là tài sản vô hình hoặc hữu hình, có thể là động sản hay bất động sản.
Khi bên có nghĩa vụ được bảo đảm không thực hiện đúng những nghĩa vụ của mình như đã thoả thuận, bên nhận bảo đảm sẽ xử lý tài sản bảo đảm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tránh để hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ ảnh hưởng tới mình. Trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005, cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược và ký quỹ là các biện pháp bảo đảm đối vật.
Giao dịch bảo đảm đối nhân là giao dịch mà bên bảo đảm là bên thứ ba cam kết với bên nhận bảo đảm về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ được bảo đảm, khi đến hạn mà bên có nghĩa vụ được bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận. Khác với biện pháp bảo đảm đối vật, bên bảo đảm có nghĩa vụ . Việc cá thể hóa tài sản nào được phát mại để thanh toán cho Bên cho vay thường được tiến hành sau khi đến hạn mà Bên vay không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận. Theo đó, với giao dịch bảo đảm tiền vay, khi xảy ra tranh chấp hoặc Bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, thì trách nhiệm cá nhân của người bảo đảm sẽ là đối tượng được sử dụng nhằm lấy lại khoản tiền mà tổ chức tín dụng đã cho vay. Trách nhiệm cá nhân này thường được xác lập bởi một Bên thứ ba.
1.2.2. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản và bảo lãnh