Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều - 5

Hay ước muốn chiếm hữu trong tình yêu như nhà thơ Nguyễn Bính đã viết:

Cô nhân tình bé nhỏ của tôi ơi Tôi muốn môi em chỉ mỉm cười Những lúc có tôi và mắt chỉ Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi.

Tôi muốn em đừng nghĩ đến ai Đừng hôn dù thấy đóa hoa tươi Đừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ

Đừng tắm chiều nay biển lắm người…

Và rồi thi sĩ kết luận:

Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi Thế nghĩa là yêu quá mất rồi Và nghĩa là cô là tất cả

Cô là tất cả của riêng tôi.

Đến với thơ Nguyễn Quang Thiều, ta cũng bắt gặp những cảm xúc nồng nàn và tha thiết ấy. Tuy nhiên, các cung bậc cảm xúc của tình yêu lại được nhà thơ nhìn nhận qua một lăng kính mới mẻ thể hiện trong hàng loạt các bài thơ: Bây giờ đang cuối mùa đông, Một bài hát tình yêu của làng chùa, Những ngôi sao, Đêm gần sáng, Bản tuyên ngôn của cơn mơ, Hai con hải cẩu,… Bài thơ Những ngôi sao là một trong những bài thơ viết về tình yêu hay nhất của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều:

Đêm nay là đêm thứ bao nhiêu rồi ta chẳng còn biết nữa Ta ôm nhau ngồi thở trước sao trời

Những ngôi sao tuyệt vời nhưng anh không với được Chẳng bao giờ anh hái được cho em (…)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 92 trang tài liệu này.

Đêm nay là đêm thứ bao nhiêu rồi ta chẳng cònbiết nữa Ta như hai đứa trẻ non mềm vừa mới sinh ra

Với hơi thở của người vừa ốm dậy Ta ôm nhau ngước mắt gọi sao trời

Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều - 5

Thế giới của tình yêu chứa thật nhiều điều bí ẩn, hai người yêu nhau cùng sống và hướng tới một mục đích chung, nhưng ngay cả trong những giây phút tưởng chừng như hòa hợp với cảm xúc đắm say ấy con người vẫn cảm thấy có một nỗi cô đơn, trống trải trong vũ trụ bao la. Trong tâm hồn họ vẫn có một chút gì đó mơ hồ lo âu thoảng qua, vẫn gợn lên như những đợt sóng, những nghĩ suy trăn trở về cuộc sống, về tương lai. Tuy vậy, trong nỗi niềm rung cảm riêng tư ấy, họ vẫn luôn có một niềm tin, cùng hướng tới những vì sao, cùng ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc.

Viết về tình yêu, vẫn trở về với cõi linh thiêng, sâu thẳm nhất của tình cảm con người nhưng nhà thơ Nguyễn Quang Thiều không chỉ thể hiện những trạng thái của tình yêu mà đặt những tình cảm ấy trong mối quan hệ nhiều chiều:

Và chúng ta cùng hát, đôi môi bất tử

Chúng ta như hai khối đồng nung chảy tan hòa vào nhau

Chúng ta hắt sáng như ban mai, chúng ta nồng thơm như cánh đồng

Chúng ta vô tận như nơi sinh ra chúng ta

Trong khung cảnh vô cùng đẹp đẽ ấy bỗng xuất hiện những vị khách không mời:

Trên đầu chúng ta bầy chim ăn thịt mỗi lúc một đông Chúng liệng từng vòng mắt nhìn chúng ta không chớp

Từ trên cao tiếng chúng mang theo cái chết. Chúng ta thấy những cái móng sắc lướt lạnh dọc sống lưng

Chúng chỉ chờ máu chúng ta ngừng chảy, tiếng chúng ta ngừng vang

thân thể chúng ta ngừng nóng và mắt chứa đầy bóng tối như những kẻ đói khát nhất thế gian này chúng sẽ lao xuống

Và tình yêu sợ hãi của chúng ta sẽ thành bữa tiệc cho sự khoái trá

Theo nhà thơ, tình yêu khi đã trải qua những khó khăn, thử thách của cuộc sống khắc nghiệt sẽ trở nên vĩ đại và đáng trân trọng hơn. Bởi thế, ông viết tiếp:

Bởi thế tình yêu trở nên vĩ đại và thách đố trong cả những nơi tăm tối chúng ta phải sống

trong cả những giấc ngủ trên chiếc giường chật hẹp cơn mơ chúng ta không được phép đầu hàng

(Bản tuyên ngôn của cơn mơ)

Trong bài thơ Hai con hải cẩu ta thấy tình yêu không đơn thuần chỉ là tình cảm của hai người. Ở đó tình yêu còn chịu sự chi phối, ràng buộc của hoàn cảnh, của nhiều mối quan hệ. Hai nhân vật trữ tình trong bài thơ yêu nhau nhưng tình yêu ấy không thể cách biệt đơn lẻ với những mối quan hệ của những người thân yêu. Cuối tác phẩm mạch nguồn chung của tình cảm gia đình vẫn dạt dào tuôn chảy theo tiếng gọi của biển:

Biển đang gọi họ về với biển Hay đang đuổi họ đi

(Hai con hải cẩu)

Có thể thấy hầu như trong tất cả những sáng tác của mình, nguồn cảm xúc sâu lắng nhất được Nguyễn Quang Thiều trở đi trở lại đó là cảm xúc về những người thân yêu (ông nội, bà nội, cha, mẹ, vợ, con gái...). Với thế mạnh về thể thơ tự do, thơ văn xuôi, Nguyễn Quang Thiều đã tạo nên cách thể hiện mới. Nhà thơ không chỉ chú trọng miêu tả những cung bậc tình cảm sâu lắng, thiết tha mà còn chú trọng tới việc tạo dựng, xác lập mối quan hệ giữa nhân vật trữ tình với người cha, người mẹ khiến cho tác phẩm thơ được đặt trong một kết cấu chặt chẽ. Bài thơ Dâng trà đã tái hiện được dòng cảm xúc thành kính của nhân vật trữ tình dành cho người cha:

Thưa cha, con đã dâng trà

Sao cha im lặng như là bóng mây Để hồn trà khuất đâu đây

Xác trà lạnh ngắt đổ đầy lòng con.

Thơ Nguyễn Quang Thiều giống như một câu chuyện kể, có tình tiết, sự kiện và có cả những diễn biến trong cảm xúc của nhân vật. Đó có thể là câu chuyện về một con mèo hoang:

Có một con mèo hoang Lang thang trên đồng cỏ Bốn cái chân gầy nhỏ Đôi mắt tròn buồn teo

Khi đồng cỏ vào đêm Gió lồng như quỉ dữ Mèo len lén tìm về Những ngôi nhà có lửa.

(Có một con mèo hoang)

Khám phá thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Quang Thiều, người đọc tự cảm nhận, tự chiêm nghiệm và thức dậy trong lòng mình một thế giới riêng. Thơ Nguyễn Quang Thiều mang tính khái quát, chính điều đó khơi gợi ở người đọc sự đồng cảm và chia sẻ.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều không chỉ hướng đến khám phá vẻ đẹp cuộc sống qua những biến đổi tinh tế của thiên nhiên, tạo vật mà ông còn luôn khát khao hướng tìm vẻ đẹp ấy ở ngay trong cuộc sống của con người. Trước những số phận bất hạnh của con người trong đời sống hiện đại, ông luôn thể hiện nỗi niềm cảm thương sâu sắc qua hàng loạt những bài thơ như: Những ví dụ, Cơn mê, Trên đại lộ, Những người đàn bà gánh nước sông, Bản khai sinh lần 2, Buổi chiều, Trong tiếng súng bắn tỉa, Mỗi sáng tôi mở cửa. Mạch nguồn

cảm xúc ấy thể hiện sự gắn bó sâu sắc của nhà thơ đối với cuộc đời. Tiêu biểu là những câu thơ sau:

Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen tõe ra như móng chân gà mái

Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy Những người đàn bà xuống gánh nước sông

Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt

Một bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi Bàn tay kia bám vào mây trắng

(Những Người đàn bà gánh nước sông) Hay hình ảnh những người đàn bà vác dậm trong bài thơ Trên đại lộ:

Người họ bọc kín bởi những lớp vải nâu và đen Chỉ đôi tay, đôi chân và đôi mắt lộ ra

Nhưng tất cả cùng một màu như thế

Những chiếc dậm trên vai họ như vầng trăng khuyết vớt từ bùn lên Những cái giỏ bên hông như những cái đầu trọc lắc lư theo nhịp bước

Bóng họ đổ xuống đường thành những vũng đen.

Trong xã hội hiện đại cùng với những thay đổi phức tạp của đời sống là sự đảo lộn khôn lường của những chuẩn mực cũ. Thơ Việt Nam sau 1975 có xu hướng trở về với đời tư, trở về với cái tôi cá nhân, khẳng định cá tính: “Thơ là nơi xuất phát cuộc tìm kiếm khó khăn và quyết liệt của người làm thơ trên lộ trình trở về bản thể thi sĩ, trở về cái tôi. Đối diện với chính mình, nhà thơ có dịp nhận thức những gì đã trải nghiệm của bản thân, đi sâu vào khai thác khám phá “thế giới ngay trong mình” [36].

Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều luôn khát khao tìm lại những giá trị nguyên sơ cao quý của tâm hồn con người. Cái tôi ấy cũng mang cả những nỗi cô đơn trên hành trình tìm kiếm tri ân:

Phải đào ba tấc đất sâu

Mới tìm được người uống rượu ? Phải lên đến bảy tầng trời

Mới tìm được người hầu chuyện ?

(Lễ tạ) Và tìm kiếm bản ngã của mình:

Chúng ta cố ngước mắt tìm dấu vết Và lạc ngay trước ngõ cửa nhà mình

(Hồi tưởng tháng chín).

Trên hành trình trở về với những nỗi niềm thẳm sâu của cõi lòng, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều có nhiều giây phút suy ngẫm về ý nghĩa sự vận động của thời gian và cái chết. Những bài thơ viết về chủ đề này không chỉ thể hiện cảm nhận tinh tế của nhà thơ về sự hữu hạn của cuộc đời mà còn là những thông điệp thể hiện những quan niệm mới về cái chết. Viết về cái chết nhưng nhà thơ lại hướng đến một đời sống mới, cái chết theo quan niệm của nhà thơ là sự tái sinh trên hiện thực lụi tàn. Khi nghĩ về cái chết, con người luôn mang đầy nỗi sợ hãi, chấp nhận cái chết không phải là điều đơn giản trong suy nghĩ của con người hiện đại. Đó là điều hiện hữu ngay cả trong thơ Nguyễn Quang Thiều, nhưng tinh thần mới mẻ mà nhà thơ hướng tới chính là cái nhìn mới về thế giới bên kia. Nhà thơ quan niệm cái chết như là hành trình của một cuộc sống mới, là một ban mai đến với thế giới này:

“Chúng ta thường chăm sóc những ngôi mộ bằng nỗi sợ hãi và tiếc thương

Nhưng ít người chúng ta nhìn thấy cỗ xe tang lộng lẫy

Trong tiếng trống tưng bừng

Làm thần chết cũng hết phiền muộn (…)

Và lúc đó ở bên ngoài cửa sổ Khu vườn giàn dụa trăng

Họ đã nhìn thấy vẻ đẹp diệu kỳ

Trong những gì luôn đe doạ người khác.”

(Thay lời nguyện cầu)

Chủ đề về cái chết là một trong những vấn đề nhân bản xuyên suốt dòng chảy của thơ ca. Đó cũng là bước ngoặt quan trọng trong quan niệm về cuộc đời của các nhà thơ hiện đại sau 1975.

Khi suy ngẫm về cuộc sống trong xã hội hiện đại, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều luôn trăn trở về khả năng tái sinh của nhân loại. Đây cũng chính là nguồn cảm hứng xuyên suốt trên hành trình sáng tạo văn chương của Nguyễn Quang Thiều. Tính triết lý thấm đượm màu sắc tâm linh bao phủ hai tập thơ: Nhịp điệu châu thổ mới Bài ca những con chim đêm mang tới cho thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Quang Thiều những bước chuyển biến quan trọng về cảm xúc và thi pháp qua thể loại trường ca. Trong thơ Nguyễn Quang Thiều, cái chết luôn được nhìn nhận với một tinh thần phục sinh, cái chết tạo ra một cuộc sống mới khác đời sống hiện tại. Tiêu biểu là trường ca Nhân chứng của một cái chết. Đây là trường cagiữ một vị trí quan trọng trong tập thơ Bài ca những con chim đêm, mỗi khúc trong trường ca là một câu chuyện về sự tái sinh một đời sống mới.Trong khúc một của bản trường ca, nhà thơ đã chứng kiến sự biến đổi đời sống bằng một cơn mưa tuôn đổ từ trời. Trận mưa đêm như cuốn trôi mọi thứ cả những dục vọng tầm thường hèn mọn của con người:

Đêm nay, nước đã đến. Bằng sự im lặng khổng lồ, nước nhấn chìm mọi vật không có cánh.

Có những cánh non đang mọc làm đau buốt mạng sườn ta.

(Khúc một)

Tinh thần phục sinh được nuôi dưỡng từ trong đời sống tâm hồn của con người. Để vượt qua mọi trở ngại trong cuộc sống thì con người phải luôn có niềm tin, lòng quyết tâm và một nghị lực kiên định. Màn đêm và cơn mưa là

bối cảnh để nhân vật “tôi” chứng kiến sự biến đổi của đời sống trong suốt mười chín khúc. Và có lẽ chưa bao giờ trong thơ ca Việt Nam, một đời sống đòi sự phục sinh lại được lên tiếng mạnh mẽ như trong thơ Nguyễn Quang Thiều.

Mở đầu và kết thúc bản trường ca Nhân chứng của một cái chết là hình ảnh của cơn mưa trong đêm. Cái chết về thể xác chỉ là duyên cớ để nhà thơ nói lên những dự cảm về cái chết của đời sống tinh thần trong thế giới hiện đại. Hình ảnh ngôi sao và cây cầu ánh sáng hiện hữu trong bóng tối như một sự vận động không ngừng, nó vẫn bền bỉ soi sáng cho đức tin và nghị lực của con người để hướng về cuộc sống tốt đẹp hơn.

TrongCây ánh sáng, tinh thần phục sinh lại được biểu hiện qua bi kịch của Những con cá ướp Linh hồn những con bò. Mặc dù đã bị đã bị chôn vùi trong chiếc chum sành tăm tối, giữa các hạt muối nhưng những con cá vẫn luôn ước mơ về sự phồn thực, ước mơ được sinh nở:

Chiếc chum sành lắc lư Những con cá ướp

Phun chảy những dòng trứng Nở ra những con cá

Trong dòng hải lưu suy tưởng bất tận của tôi”

(Những con cá ướp)

Từ những cung bậc cảm xúc trào dâng được thăng hoa trong những khoảnh khắc khám phá vẻ đẹp của cuộc sống, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều lại lắng sâu cảm xúc khi chiêm nghiệm suy ngẫm về cõi người trong Cây ánh sáng. Mạch nguồn cảm xúc của bài thơ là những tình cảm day dứt tự vấn được thể hiện qua những lời đối thoại qua sự phân thân bản thể của nhà thơ: trong mỗi một con người đều có cái thiện và cái ác, cái tốt và cái xấu, chẳng có chúa trời nào có thể cứu rỗi được những tội lỗi của nhân phẩm con người ngoài sự tự hướng thiện của con người. Chỉ khi con người tự đối mặt với những lỗi lầm, nhận ra lỗi lầm và hướng thiện, khi đó tâm hồn con người mới được cứu rỗi.

Xem tất cả 92 trang.

Ngày đăng: 29/02/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí