2.1.2.1. Thực phẩm không gây hại
Theo Huang, Wu, Rong, You, & Jiang (1999) “Thẩm định chất lượng môi trường cho vùng sản xuất rau không gây hại”, TP không gây hại là TP có chất lượng tốt, bổ dưỡng và an toàn, có tồn dư các hóa chất độc hại như phân bón, thuốc trừ sâu, kim loại nặng, nitrat ở dưới mức giới hạn cho phép, được thiết lập bởi các tiêu chuẩn quốc gia.
2.1.2.2. Thực phẩm hữu cơ
Theo tổ chức nông nghiệp và TP thế giới (FAO) “TP hữu cơ là những TP được nuôi trồng trong điều kiện tự nhiên không có hóa chất, kháng sinh, công nghệ biến đổi gen hay bất kỳ hóa chất tổng hợp nào”. Mặc dù vậy, hiện nay vẫn còn có những tranh luận về thuật ngữ “Thực phẩm hữu cơ”.
2.1.2.3. Thực phẩm xanh
Theo Zhang và cộng sự (2002) “Đánh giá thị trường nông sản không gây hại và các chính sách có liên quan” cho rằng, TP xanh được hiểu theo khái niệm về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. M i giai đoạn của quá trình sản xuất TP xanh phải đáp ứng các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, tuân thủ các quy định của cơ quan chuyên môn có thẩm quyền. TP xanh được chia ra 2 cấp, gồm cấp AA và cấp A. Theo Qin, Li, và Tần (2003) “Sự khác nhau và mối quan hệ giữa TP hữu cơ, TP xanh, TP không gây hại”, TP đạt tiêu chuẩn cấp A coi như đạt tiêu chuẩn TP không ô nhiễm môi trường, an toàn với sức khỏe con người, tức là đạt yêu cầu “an toàn, vệ sinh”, nếu đạt cấp AA coi như đạt tiêu chuẩn TP hữu cơ theo tiêu chuẩn quốc tế.
Có thể bạn quan tâm!
- Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua thực phẩm an toàn của người tiêu dùng trường hợp thành phố Cà Mau - 1
- Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua thực phẩm an toàn của người tiêu dùng trường hợp thành phố Cà Mau - 2
- Các Mối Liên Hệ Giữa Các Yếu Tố Với Ý Định Mua Tpat
- Thang Đo Định Danh Về Các Khái Niệm Trong Mô Hình
- Phân Tích Dữ Liệu Thống Kê Mẫu Và Các Biến Nghiên Cứu
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Thực phẩm xanh phải được sản xuất và chế biến trong môi trường tuyệt đối không có ô nhiễm. Các nguyên liệu nông sản, gia súc, gia cầm, thuỷ sản, quá trình trồng trọt, chăn nuôi và gia công đều phải phù hợp quy trình sản xuất quy định. Ví dụ, phải khoanh một vùng đồng ruộng chuyên dùng để sản xuất TP xanh, phải chọn giống tốt có sức kháng bệnh cao, dùng phương pháp thiên dịch để chữa bệnh, dùng
phân bón hữu cơ đã ủ hoại để bón, không dùng phân hoá học, thuốc bảo vệ thực vật và các hoá phẩm khác, khiến cho tàn dư các chất gây ô nhiễm môi trường trong TP tồn tại thấp nhất.
Từ khái niệm về các loại TPAT ở trên, có thể thấy, TP hữu cơ là loại TP mà trong quá trình sản xuất không được sử dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ hóa học và không chứa chất kích thích tăng trưởng/ tăng trọng, TP xanh cần phải được trồng trong môi trường hoàn toàn không ô nhiễm. Do vậy, TP hữu cơ, TP xanh là những loại TP có rất ít trên thị trường, giá thành rất cao, không có nhiều doanh nghiệp thương mại bán lẻ TPAT kinh doanh loại TP này. TP không gây hại là loại TP trong quá trình sản xuất được sử dụng một số chất hóa học nhằm phòng và chống bệnh cho cây trồng/ vật nuôi, những loại TP này phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về việc sử dụng các hóa chất như hàm lượng, thời gian trước thu hoạch... nhằm đảm bảo sản phẩm không gây hại cho sức khỏe người sử dụng. Loại TP không gây hại có năng suất cao hơn TP hữu cơ và TP xanh, giá thành không chênh lệch nhiều so với TP thông thường, nên các doanh nghiệp bán lẻ kinh doanh loại TPAT này là chủ yếu, những mặt hàng TPAT mà các doanh nghiệp thương mại bán lẻ kinh doanh phải được các cơ quan chứng nhận đảm bảo VSATTP. Loại TPAT này sẽ khác với loại TPAT do các hộ gia đình tự trồng trọt, chăn nuôi, cung ứng ra thị trường nhưng không được các cơ quan chức năng chứng nhận ATTP.
2.2. Thực trạng ATTP tỉnh Cà Mau
Hoạt động sản xuất, buôn bán thực phẩm cũng như tiêu dùng thực phẩm tại tỉnh Cà Mau hiện đang phát triển khá mạnh. Theo thống kê của Ủy ban Nhân dân tỉnh Cà Mau, hiện nay trên địa bàn tỉnh có 5.388 cơ sở chế biến, kinh doanh thực phẩm (có 615 cơ sở sản xuất chế biến thực phẩm, 1.418 cơ sở kinh doanh thực phẩm, 3.355 cơ sở dịch vụ ăn uống). Trong đó, các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP, tuyến tỉnh quản lý 100%. Tuy nhiên, đối với tuyến huyện còn khá ít, chỉ khoảng 40%, trong thời gian qua, qua kiểm tra, đã phát hiện và xử lý nhiều trường hợp vi phạm như: cơ sở không đảm bảo
ATVSTP, vệ sinh cơ sở không đạt, trang thiết bị dùng để chế biến thực phẩm không đảm bảo, tại các khu chợ tình trạng bán thức ăn sống, chín được bày bán xen lẫn, không có dụng cụ che đậy rất mất vệ sinh, nhiều loại rau, củ, quả, cá, thịt,…được bày bán trên những tấm ni - lông hay những mảnh ván kê tạm bợ dưới nền đất ẩm ướt. Một số cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm cạnh cống rãnh, ao tù,… hoặc sử dụng dụng cụ chế biến, bảo quản thô sơ, cũ kỹ rất mất vệ sinh. Người tiêu dùng lựa chọn thực phẩm chủ yếu vẫn dựa vào kinh nghiệm và cảm quan, chưa có một tiêu chuẩn cụ thể nào để đánh giá TPAT, không bị nhiễm thuốc trừ sâu, chất độc hại. Mặc dù biết nguy cơ mất ATVSTP là rất cao, nhưng do nhu cầu hằng ngày người tiêu dùng đành phải chấp nhận sử dụng.
2.3. Các mô hình nghiên cứu về ý định mua TPAT trong và ngoài nước
2.3.1. Một số mô hình nghiên cứu về TPAT trong nước
Trên thực tế thì đã có rất nhiều mô hình nghiên cứu về “Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua TPAT của người tiêu dùng” cụ thể là một số nghiên cứu sau:
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hiền (2016) “Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua TPAT của người tiêu dùng thành phố Hồ Chí Minh”.
Trong nghiên cứu này, tác giả thực hiện nghiên cứu định tính thông qua phỏng vấn sâu để điều chỉnh, bổ sung thang đo. Tiếp theo, tiến hành kiểm định Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố khám phá EFA. Sau khi phân tích những biến không phù hợp sẽ bị loại bỏ, tác giả phân tích hồi quy để xây dựng mô hình hồi quy. Kết quả phân tích cho thấy có 5 yếu tố có tác động dương đến ý định mua TPAT: sự quan tâm đến sức khỏe, nhóm tham khảo, nhận thức về chất lượng, chuẩn mực chủ quan, nhận thức về giá bán. Trong đó, sự quan tâm đến sức khỏe có tác động mạnh nhất và cảm nhận về chất lượng có tác động yếu nhất.
Mô hình nghiên cứu:
Sự quan tâm đến sức khỏe
Sự quan tâm tới môi
trường
Nhận thức về chất
lượng
Ý ĐỊNH MUA THỰC PHẨM
AN TOÀN
Nhận thức về
sự sẵn có
Nhóm tham
khảo
Nhận thức
về giá bán
Chuẩn mực
chủ quan
Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hiền (2016)
(Nguồn: mô hình nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hiền, 2016)
Nghiên cứu của Ngô Phạm Ý Uyên (2017) “Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua TPAT của người tiêu dùng thành phố Nha Trang”.
Nghiên cứu này với 5 thành phần nhân tố ban đầu mà tác giả đề xuất gồm: nhận thức về giá bán, nhận thức về chất lượng, sự quan tâm đến sức khỏe, lòng tin đối với truyền thông, nhận thức về sự sẵn có TPAT. Sau quá trình phân tích nhân tố khám phá EFA từ kết quả khảo sát với 200 người tiêu dùng đã hình thành được 6 nhân tố, trong đó có một nhân tố mới được đề xuất, đó là nhân tố sự quan tâm đến an toàn thực phẩm tách từ nhân tố sự quan tâm đến sức khỏe, tuy nhiên nhân tố sự quan tâm đến an toàn thực phẩm đã bị loại sau khi chạy hồi quy. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy, cả 5 nhân tố nhận thức về giá bán, nhận thức về chất lượng, sự quan tâm
đến sức khỏe, lòng tin đối với truyền thông, nhận thức về sữ sẵn có của TPAT đều có ảnh hưởng đến việc người tiêu dùng có ý định mua TPAT hay không. Đối với nhân tố sự quan tâm đến sức khỏe, nếu người tiêu dùng hài lòng với sức khỏe của mình, luôn coi trọng sức khỏe, rất quan tâm đến sức khỏe, sức khỏe tốt so với người cùng tuổi, hi sinh một vài sở thích để bảo vệ sức khỏe sẽ càng có ý định mua TPAT hơn. Nhân tố nhận thức về giá bán cho thấy giá bán TPAT cao, phù hợp với chất lượng, giá cả hợp lý thì người tiêu dùng sẽ có ý định mua TPAT. Nhân tố nhận thức về chất lượng cho thấy TPAT có chất lượng cao, tươi, ngon, giàu dinh dưỡng, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, thì càng có ảnh hưởng tích cực đến ý định mua TPAT. Nhân tố nhận thức về sự sẵn có của sản phẩm TPAT thì TPAT luôn có sẵn, dễ mua, nhiều chủng loại, nhiều đại lý phân phối thì người tiêu dùng sẽ hình thành ý định mua TPAT. Nhân tố lòng tin đối với truyền thông thì TPAT có gắn nhãn mác, các tuyên bố về TPAT của nhà sản xuất và những quảng cáo ở các siêu thị sẽ thu hút người tiêu dùng từ đó làm thúc đẩy ý định mua TPAT.
Như vậy, các cơ sở kinh doanh cần xây dựng một chính sách giá hợp lý, quan tâm nhiều đến chất lượng TPAT, thường xuyên có các chương trình tư vấn và chăm sóc sức khỏe để nâng cao nhận thức về sức khỏe của người tiêu dùng, đồng thời xây dựng chiến lược kênh phân phối phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho người tiêu dùng tiếp cận được nguồn TPAT, song song đó là các hoạt động truyền thông để thu hút khách hàng. Nghiên cứu này nhằm mục đích là phân tích đánh giá mức độ ảnh hưởng của một số nhân tố như: “sự quan tâm đến sức khỏe, nhận thức về giá bán, nhận thức về chất lượng, nhận thức về sự sẵn có của sản phẩm TPAT, lòng tin đối với truyền thông”, làm ảnh hưởng đến ý định mua TPAT của người tiêu dùng tại TP. Nha Trang.
Mô hình nghiên cứu:
Ý ĐỊNH MUA THỰC PHẨM AN TOÀN
Sự quan tâm đến sức khỏe
H1
Sự quan tâm đến ATTP
H2
Nhận thức về giá bán
H3
H4
Nhận thức về chất lượng
H5
Nhận thức về sự sẵn có
H6
Lòng tin đối với truyền thông
Hình 2.2. Mô hình nghiên cứu của Ngô Phạm Ý Uyên (2017)
(Nguồn: mô hình nghiên cứu của Ngô Phạm Ý Uyên, 2017)
2.3.2. Một số mô hình nghiên cứu về TPAT ở nước ngoài
Nghiên cứu của A.H. Aman và cộng sự ( 2012)
Nghiên cứu được thực hiện để tìm hiểu ảnh hưởng của sự hiểu biết về môi trường và sự quan tâm tới môi trường tới thái độ từ đó ảnh hưởng tới ý định mua TPAT của người tiêu dùng Malaysia. Tác giả đã phỏng vấn 384 người tiêu dùng ở các loại TPAT khác nhau và phân tích bằng phương pháp định lượng. Nghiên cứu đã tìm ra rằng sự hiểu biết về môi trường và sự quan tâm tới môi trường ảnh hưởng
rõ rệt tới ý định mua TPAT. Quan trọng hơn, kết quả cho thấy thái độ đóng vai trò làm trung gian trong mối quan hệ giữa sự quan tâm tới môi trường và ý định mua TPAT. Trong khi đó, sự hiểu biết về môi trường không giúp dự đoán thái độ, do vậy thái độ không đóng vai trò trung gian trong mối quan hệ giữa sự hiểu biết về môi trường và ý định mua TPAT. Nghiên cứu tìm ra những kết luận rất hữu ích tuy nhiên nó có hạn chế là mới chỉ nghiên cứu được hai biến liên quan đến môi trường.
Mô hình của nghiên cứu:
Thái độ với thực phẩm an toàn
Hiểu biết về môi trường
Ý ĐỊNH MUA THỰC PHẨM AN TOÀN
Sự quan tâm tới môi trường
Hình 2.3: Mô hình nghiên cứu của A.H. Aman và cộng sự (2012)
(Nguồn: mô hình nghiên cứu của A.H. Aman và cộng sự, 2012)
Nghiên cứu của Justin Paul và cộng sự (2012)
Nghiên cứu được thực hiện tại Ấn Độ bằng phương pháp định lượng với mẫu là 463 người tiêu dùng nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của các nhân tố nhân khẩu, lợi ích về sức khỏe, sự sẵn có của TPAT tới ý định mua TPAT của người tiêu dùng sinh thái tại đây. Nghiên cứu đã đưa ra những kết luận sau: Người tiêu dùng có trình độ văn hóa cao và vị trí cao có xu hướng mua TPAT nhiều hơn. Lợi ích về sức khỏe đóng một vai trò quan trọng trong quyết định mua TPAT. Và sự không sẵn có của TPAT là rào cản chính cho ý định mua TPAT. Ý định mua TPAT lại dẫn đến sự
thỏa mãn về TPAT. Và sự thỏa mãn này được quyết định bởi các nhân tố như lợi ích về sức khỏe, chất lượng, vị ngon của thực phẩm, độ tươi mới của thực phẩm, sự đa dạng của TPAT... Đây là một nghiên cứu sâu sắc và có giá trị tuy nhiên xét riêng với việc nghiên cứu ý định mua TPAT thì mô hình chưa có được nhiều nhân tố.
Mô hình của nghiên cứu:
Nhân khẩu, lợi ích sức khỏe, sự sẵn
có
Ý ĐỊNH MUA THỰC PHẨM AN
TOÀN
Sự thỏa mãn về thực phẩm
an toàn
Hành vi người tiêu dùng sinh
thái
Lợi ích về sức khỏe, chất lượng, vị ngon, độ tươi, sự đa dạng của
thực phẩm an toàn
Hình 2.4: Mô hình nghiên cứu của Justin Paul và cộng sự (2012)
(Nguồn: mô hình nghiên cứu của Justin Paul và cộng sự, 2012)
2.4. Ý định mua TPAT và các mối liên hệ giữa các yếu tố với ý định mua TPAT
2.4.1. Ý định mua
Ý định được cho là “chứa đựng những yếu tố thúc đẩy, ảnh hưởng đến hành vi, nó chỉ ra mức độ mà một người sẵn sàng thử, mức độ n lực thực hiện để hoàn thành hành vi. Khi con người có ý định mạnh mẽ để sẵn sàng tham gia vào một