DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hiền (2016) 11
Hình 2.2: Mô hình nghiên cứu của Ngô Phạm Ý Uyên (2017) 13
Hình 2.3: Mô hình nghiên cứu của A.H. Aman và cộng sự (2012) 14
Hình 2.4: Mô hình nghiên cứu của Justin Paul và cộng sự (2012) 15
Có thể bạn quan tâm!
- Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua thực phẩm an toàn của người tiêu dùng trường hợp thành phố Cà Mau - 1
- Các Mô Hình Nghiên Cứu Về Ý Định Mua Tpat Trong Và Ngoài Nước
- Các Mối Liên Hệ Giữa Các Yếu Tố Với Ý Định Mua Tpat
- Thang Đo Định Danh Về Các Khái Niệm Trong Mô Hình
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Hình 2.5: Mô hình nghiên cứu mới 22
Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu 24
Hình 4.1: Mô hình nghiên cứu sau phân tích nhân tố EFA 49
Chương 1
GIỚI THIỆU CHUNG
Chương 1 - giới thiệu sự cần thiết, mục tiêu, câu hỏi và phương pháp nghiên cứu. Đối tượng, phạm vi và bố cục của nghiên cứu cũng được trình bày trong chương này.
1.1. Sự cần thiết của nghiên cứu
Đất nước ta đang trong thời kì công nghiệp hoá – hiện đại hoá. Kinh tế phát triển khiến nhu cầu của người dân ngày càng cao, đặc biệt là trong nhu cầu ăn uống không còn như câu nói “ăn no, mặc ấm nữa mà lại trở thành ăn ngon, mặc đẹp”. Tuy vậy, việc giữ vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) vẫn chưa được nhiều người chú ý đến, do thực phẩm (TP) là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng và tạo năng lượng cho sự phát triển của cơ thể con người. M i người chúng ta ai cũng đều nhận thấy tầm quan trọng của việc n uống, đó là nhu cầu hàng ngày không thể thiếu được. Tuy nhiên, nếu như nguồn TP không đảm bảo VSATTP, thì sức khoẻ con người ngày càng bị ảnh hưởng. Thực tế cho thấy TP nhiều khi lại là nguồn gây ra bệnh và làm cho sức khỏe con người bị ảnh hưởng. Đó là các loại TP không an toàn từ quy trình sản xuất các loại đồ ăn, đồ uống kém chất lượng, chất lượng không được đảm bảo và không sản xuất đúng theo những thành phần nguyên vật liệu cũng như quy trình sản xuất đã đăng ký với cơ quan chức năng, về quy trình quảng cáo, nhãn mác không đúng với sự thật vẫn thường xuyên diễn ra. Ngoài ra, việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật, thuốc bảo quản không theo những quy định của các cơ quan chức năng, từ đó gây ra ô nhiễm môi trường, thiên nhiên xung quang, cũng như là các chất tồn dư, các hóa chất này trong TP, việc bảo quản và sử dụng không hợp lý dẫn đến ngộ độc TP, nghiêm trọng hơn là dẫn đến tử vong. Đây là vấn đề gây ra nhiều lo lắng trong người tiêu dùng và toàn xã hội. (Tuyên truyền về VSATTP, 2016).
Hàng năm ở Việt Nam thường tổ chức các hội nghị về phòng chống các bệnh về ung thư. Trong năm 2017 có tổ chức hội nghị khoa học quốc tế về phòng chống ung thư được tổ chức tại Huế, hội nghị này do Hội Ung thư Việt Nam, Bệnh viện
Trung ương Huế và Trường Đại học Y Dược Huế phối hợp tổ chức. Phát biểu tại hội nghị Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Duy Thăng, Phó giám đốc bệnh viện Trung ương Huế cho biết “bệnh ung thư đang là một gánh nặng y tế toàn cầu. Ước tính thì m i năm, trên toàn thế giới đã có trên 12 triệu người mắc căn bệnh về ung thư và 7 triệu ca mắc bệnh ung thư đã tử vong, xếp thứ 2 về tổng số người tử vong đứng sau bệnh tim mạch. Ở đất nước Việt Nam, thì hàng năm có khoảng 126 ngàn ca mắc căn bệnh về ung thư, trong đó có khoản 94 ngàn ca mắc bệnh ung thư đã tử vong (theo thống kê ngành y tế). Thực phẩm cũng là một trong những nguyên nhân gây ra căn bệnh ung thư, nhưng có rất nhiều nguyên nhân khác nhau, song chủ yếu là do môi trường, nguồn nước bị ô nhiễm và nguồn TP có chứa chất gây hại không đảm bảo vệ sinh”. Còn ở tỉnh Cà Mau thì theo kết quả kiểm tra của Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh Cà Mau tình hình VSATTP đối với các loại thực phẩm sử dụng hằng ngày, hầu hết đều đạt chất lượng thấp. Điển hình như: nước đá 78.42%, nước uống đóng chai 84.84%, bún, phở 63.33%. Đặc biệt, các loại thực phẩm đường phố có tiêu chuẩn vệ sinh cực kỳ thấp, chỉ 17.16% chất lượng cho phép.
Bên cạnh đó đời sống xã hội ngày một phát triển, trình độ hiểu biết, nhận thức của người tiêu dùng về vấn đề an toàn khi sử dụng thực phẩm càng được ưu tiên hơn bao giờ hết. Và ở TP. Cà Mau với tình trạng kinh tế xã hội phát triển cũng là nơi tiêu dùng thực phẩm an toàn (TPAT) nhiều hơn ở nông thôn. Mặc dù các sản phẩm TPAT trên thị trường không phải là chưa có, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của đông đảo người tiêu dùng, vì thế vẫn còn rất nhiều những cơ hội cho các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh đã, đang và sẽ đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh này. Vì vậy, việc nghiên cứu về TPAT cho tỉnh Cà Mau hiện nay là vấn đề cấp thiết.
Theo thực tế thì cũng có một số nghiên cứu trước đã thực hiện nghiên cứu về TPAT như: nghiên cứu của Lê Thùy Hương được thực hiện tại Hà Nội, nghiên cứu thực hiện ở TP. Hồ Chí Minh của Nguyễn Thị Thu Hiền, nhưng nghiên cứu về TPAT lại chưa được thực hiện nghiên cứu tại tỉnh Cà Mau. Từ những lý do trên, tác
giả quyết định lựa chọn đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua thực phẩm an toàn của người tiêu dùng” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình để nghiên cứu.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nhận biết các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua TPAT của người tiêu dùng.
- Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này đến ý định mua TPAT của người tiêu dùng.
- Đưa ra các ý kiến đóng góp cho nhà sản xuất, kinh doanh trong ngành thực phẩm tại Cà Mau. Từ đó cải thiện tình hình ATVSTP tại Cà Mau, nâng cao chất lượng cuộc sống người tiêu dùng và nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngành sản xuất và kinh doanh TPAT tại Cà Mau nói riêng và Việt Nam nói chung.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
(1) Những yếu tố nào ảnh hưởng đến ý định mua TPAT của người tiêu dùng TP. Cà Mau?
(2) Chiều hướng tác động của các yếu tố đến ý định mua TPAT như thế nào?
(3) Mức độ tác động của những yếu tố đến ý định mua TPAT như thế nào?
(4) Những hàm ý có thể đưa ra để nâng cao ý định mua TPAT của người tiêu dùng tại TP. Cà Mau?
1.4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua TPAT của người tiêu dùng thành phố Cà Mau.
1.5. Phạm vi và thời gian nghiên cứu
- Phạm vi khảo sát: Người tiêu dùng TPAT tại thành phố Cà Mau.
- Dữ liệu được thu thập tại thành phố Cà Mau theo từng giai đoạn: nghiên cứu định tính từ 01/7/2017 – 15/7/2017, nghiên cứu định lượng sơ bộ 01/8/2017 – 15/8/2017, nghiên cứu chính thức thời gian 1 tháng từ 1/9/2017 đến hết tháng 9/2017.
1.6. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng hai phương pháp: nghiên cứu định tính và định lượng.
- Phương pháp nghiên cứu định tính: được thực hiện với kỷ thuật phỏng vấn sâu 10 người tiêu dùng TPAT khu vực thành phố Cà Mau. Các dữ liệu thu thập được sử dụng để điều chỉnh mô hình nghiên cứu và thang đo các khái niệm.
- Phương pháp nghiên cứu định lượng
+ Nghiên cứu sơ bộ: được tiến hành khảo sát 80 người tiêu dùng TPAT. Phương pháp thu thập dữ liệu bằng bảng câu hỏi được trực tiếp gửi đến người tiêu dùng trả lời. Thang đo sẽ được kiểm định độ tin cậy, đo giá trị bằng Cronbach’s Alpha và phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA.
+ Nghiên cứu chính thức: nghiên cứu tiến hành thu thập dữ liệu với kích cỡ mẫu là 250 đối tượng. Phương pháp thu thập dữ liệu bằng bảng câu hỏi được trực tiếp gửi đến người trả lời. Thang đo sẽ được kiểm định độ tin cậy và đo giá trị bằng phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA. Các giả thuyết nghiên cứu sẽ được kiểm định bằng phương pháp hồi quy bội. Phần mềm SPSS 20.0 được dùng để xử lý dữ liệu.
1.7. Bố cục của nghiên cứu
Nghiên cứu được trình bày thành 5 chương
Chương 1: Giới thiệu chung: chương này trình bày sự cần thiết, mục tiêu, câu hỏi và phương pháp nghiên cứu. Đối tượng, phạm vi và bố cục của nghiên cứu cũng được trình bày trong chương này.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết: chương này trình bày cơ sở lý thuyết của nghiên cứu khái niệm về TPAT, thực trạng ATTP tại Cà Mau, ý định mua và các nghiên cứu trước về ý định mua TPAT. Các giả thuyết sẽ được hình thành và cuối cùng là mô hình nghiên cứu.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu: chương này trình bày quy trình nghiên cứu, thiết kế thang đo, mẫu, phương pháp chọn mẫu, thu thập dữ liệu và phương pháp xử lý dữ liệu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu: chương này trình bày các kết quả thực hiện nghiên cứu bao gồm: phân tích thống kê mẫu và các biến trong nghiên cứu, kiểm định và đánh giá độ tin cậy của thang đo, phân tích nhân tố khám phá EFA từ đó điều chỉnh lại mô hình nghiên cứu, phân tích tương quan Pearson cuối cùng là phân tích hồi quy bội.
Chương 5: Kết luận và kiến nghị: trình bày tổng hợp lại kết quả nghiên cứu đã đạt được và đưa ra một số đề xuất kiến nghị. Ý nghĩa, hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu trong tương lai của đề tài cũng được nêu rõ trong chương này.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Chương 2 - trình bày cơ sở lý thuyết của nghiên cứu: một số khái niệm, thực trạng ATTP tại Cà Mau, các nghiên cứu trước, ý định mua và các mối liện hệ giữa các yếu tố. Các giả thuyết và mô hình nghiên cứu sẽ được hình thành.
2.1. Thực phẩm an toàn
2.1.1. Khái niệm
Thực phẩm là “sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực phẩm không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm” (Luật ATTP Việt Nam số 55/2010/QH12, 2010).
Thực phẩm an toàn là “thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng conngười” (Luật ATTP Việt Nam số 55/2010/QH12, 2010).
Trên thị trường thực phẩm, có nhiều cách gọi khác nhau về TPAT như: “Thực phẩm sạch”, “Thực phẩm an toàn”. Đối với thực phẩm không an toàn còn có cách gọi là “Thực phẩm bẩn”. Thuật ngữ “Thực phẩm sạch” hay “Thực phẩm bẩn” là cách gọi thông thường, dân dã để nói về chất lượng và tính an toàn của thực phẩm đối với sức khỏe con người, tuy cách gọi này chưa chính xác. Còn thuật ngữ “Thực phẩm an toàn”, “Thực phẩm không an toàn” được sử dụng một cách chính thống trong các tài liệu nghiên cứu, các sách, báo và trong sản xuất, chế biến thực phẩm, cũng như trong các tiêu chuẩn chất lượng, các văn bản pháp luật hay các hợp đồng giao dịch chính tắc.
Theo bộ môn Bảo vệ thực vật, Khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng, trường Đại học Cần Thơ cho rằng “những mặt hàng, những loại TP như rau tươi bao gồm tất cả các loại rau chúng ta sử dụng hàng ngày như: củ, thân, lá, hoa quả đảm bảo về chất lượng đúng với đặc tính giống của nó, hàm lượng các loại hóa chất độc hại và mức độ nhiễm các sinh vật gây hại ở dưới mức tiêu chuẩn cho phép, bảo
đảm an toàn cho người tiêu dùng và môi trường, thì được xem là rau đảm bảo ATVSTP, gọi là rau an toàn”.
Theo Trung tâm chứng nhận phù hợp, Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam rau an toàn được quy định thì các chất sau đây chứa trong rau không vượt quá tiêu chuẩn cho phép: dư lượng thuốc hóa học, ký sinh trùng và số lượng vi sinh vật, dư hàm lượng nitrat, dư hàm lượng các kim loại nặng như: chì kẽm, đồng, thủy ngân,…
Theo Hội Nông dân Việt Nam, TPAT là không chứa tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất, kháng sinh cấm hoặc vượt quá giới hạn cho phép. Không chứa các tác nhân sinh học gây bệnh (vi rút, ký sinh trùng, vi sinh vật). Không chứa các loại tạp chất (kim loại, thủy tinh, vật cứng,…). TP phải có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Được các cơ quan có thẳm quyền kiểm tra, đánh giá xác nhận về ATTP.
Từ các khái niệm trên, có thể thấy, TPAT là những TP được sản xuất, chế biến, tiêu thụ trong điều kiện đảm bảo TP không gây mất an toàn về sức khỏe, tính mạng, tài sản cho người sử dụng.
TPAT được phân thành các loại khác nhau. Theo Rongduo Liu, Zuzanna Pieniak, Wim Verbeke (2013) “Thái độ và hành vi của người tiêu dùng đối với TPAT tại Trung Quốc”, TPAT bao gồm TP không gây hại, TP xanh và TP hữu cơ. Nguyên Phó Thủ Tướng Nguyễn Công Tạn (2010) “Sản xuất nông phẩm, TP theo công nghệ sạch” cho rằng TP sạch được chia làm ba loại gồm: TP không gây hại; TP sinh thái (hay còn gọi là TP xanh) và TP hữu cơ.
2.1.2. Phân loại TPAT
Tác giả đồng ý với quan điểm của Rongduo Liu, Zuzanna Pieniak, Wim Verbeke (2013), nghĩa là, TPAT bao gồm TP không gây hại, TP xanh và TP hữu cơ. Một số quan điểm về TP không gây hại, TP hữu cơ, TP xanh như sau: