Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Rủi Ro Tín Dụng


Cán bộ ngân hàng không chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng và điều kiện cho vay (Trần Huy Hoàng, 2011).

Đánh giá sai về tình trạng tín dụng hoặc tập trung cho vay quá nhiều vào một nhóm khách hàng nhất định (Marrison, 2002)

Thiếu thông tin về khách hàng, quy trình cho vay chưa chặt chẽ, thiếu nhất quán trong cách tiếp cận xếp hạng rủi ro, chưa tuân thủ nghiêm túc các quy định cho vay (Njanike, 2009)

Cán bộ tín dụng trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm, năng lực thẩm định rủi ro tín dụng còn yếu dẫn đến gia tăng sai lầm trong quyết định cho vay (Berger và Udell, 2004)

Ngân hàng không đa dạng hóa danh mục cho vay, không phân tán rủi ro, không thực hiện kiểm tra và giám sát chặt chẽ khoản vay, cạnh tranh giữa các ngân hàng không lành mạnh (Santiago Fernández de Lis, 2000)

- Nhóm nguyên nhân khách quan

Là những tác động ngoài ý chí của khách hàng và ngân hàng như thiên tai, hỏa hoạn, thay đổi chính sách quản lý kinh tế, điều chỉnh quy hoạch vùng, ngành, hành lang pháp lý chưa phù hợp, do biến động thị trường trong và ngoài nước, quan hệ cung cầu hàng hóa thay đổi,… khiến doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn tài chính không thể khắc phục được. Từ đó, doanh nghiệp dù cho có thiện chí nhưng vẫn không thể trả nợ ngân hàng.

Bên cạnh đó, việc thu thập thông tin tín dụng của một số ngân hàng thường có chất lượng chưa cao, chưa chính xác, đầy đủ và kịp thời. Do đó, nếu hệ thống thông tin tín dụng không hiệu quả và đáng tin cậy sẽ dẫn đến việc ngân hàng bị mất vốn khi cho vay.

2.1.4.2. Hậu quả của rủi ro tín dụng

Đối với ngân hàng

Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng bị mất cân đối trong việc thu chi. Khi không thu được nợ thì


vòng quay vốn tín dụng bị chậm lại làm ngân hàng kinh doanh không hiệu quả và có thể mất khả năng thanh toán. Điều này làm giảm lòng tin của người gởi tiền, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của ngân hàng. (Trần Huy Hoàng, 2011)

Đối với khách hàng

Lãi vay ngân hàng được hạch toán vào chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Khi để phát sinh nợ quá hạn với lãi suất lớn hơn 150% lãi suất trong hạn thì chi phí của doanh nghiệp sẽ tăng lên. Uy tín của doanh nghiệp sẽ giảm sút và không thể tiếp cận nguồn vốn vay, mức tín nhiệm giảm thấp nên doanh nghiệp sẽ càng gặp khó khăn trong tình hình tài chính. Nguy cơ không có đủ tiền để trả nợ cho ngân hàng là điều khó thể tránh khỏi, dẫn đến phát mại tài sản thế chấp, đôi khi dẫn đến tình trạng phá sản cho khách hàng. (Trần Huy Hoàng, 2011).

Đối với nền kinh tế

Hoạt động ngân hàng liên quan đến nhiều cá nhân, nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế. Vì vậy, khi một ngân hàng gặp rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền sẽ hoang mang lo sợ và ồ ạt rút tiền ở cả các ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thốn ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do không có tiền trả lương cho công nhân, mua nguyên vật liệu. Lúc này giá cả hàng hóa sẽ tăng, thất nghiệp cao, xã hội mất ổn định, nền kinh tế sẽ bị suy thoái. Rủi ro tín dụng có thể châm ngòi cho một cơn khủng hoảng tài chính ảnh hưởng đến cả khu vực và thế giới. (Trần Huy Hoàng, 2011)

2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng‌

2.2.1. Nhóm yếu tố kinh tế vĩ mô‌

- Tăng trưởng kinh tế

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chất lượng tín dụng đã được nghiên cứu rất nhiều trong các tài liệu có liên quan đến chu kỳ kinh tế và sự ổn định ngân hàng. Các nghiên cứu thực nghiệm này đã tìm thấy tốc độ tăng trưởng GDP có quan hệ ngược chiều với tỷ lệ nợ xấu. Khi nền kinh tế đang phát triển, nợ xấu chỉ chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ bởi cá nhân và doanh nghiệp có đủ thu nhập và doanh thu để


thanh toán nợ đúng hạn. Ngân hàng tiếp tục mở rộng tín dụng mà không xem xét khả năng thu hồi khoản vay. Khi nền kinh tế bị suy thoái, khả năng trả nợ của khách hàng bị giảm, nợ xấu sẽ tăng lên và gây hậu quả bất lợi cho hệ thống ngân hàng (Ahlem S. M. và cộng sự, 2013).

Louzis và cộng sự (2010) thực hiện nghiên cứu tại 09 ngân hàng ở Hy Lạp và đưa ra kết luận rằng trong giai đoạn kinh tế suy thoái, tốc độ tăng trưởng GDP giảm sút có ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ của cá nhân và doanh nghiệp, dẫn đến tỷ lệ nợ xấu tăng cao.

Pasha S. và Khemraj T. (2009) cũng đưa ra kết luận tương tự khi thực hiện nghiên cứu nợ xấu của hệ thống ngân hàng ở Guyana. Nhóm tác giả chỉ ramối quan hệ ngược chiều giữa GDP và nợ xấu. Khi nền kinh tế tăng trưởng mạnh,tỷ lệ các khoản nợ xấu sẽ giảm xuống.

Abhiman Das & Saibal Ghosh (2007) thực hiện nghiên cứu nợ xấu ở Ấn Độ, cũng chỉ ra rằng tốc độ tăng trưởng GDP là một trong các yếu tố kinh tế vĩ mô chính có tác động mạnh đến rủi ro tín dụng.

- Lạm phát

Lạm phát cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng và hoạt động ngành ngân hàng. Mối quan hệ cùng chiều giữa lạm phát và rủi ro tín dụng đã được tìm thấy bởi một số tác giả trên thế giới. Gunsel (2011) đã thực hiện nghiên cứu 24 ngân hàng ở Bắc Síp trong giai đoạn 1984 – 2008 và tìm thấy được lạm phát có quan hệ cùng chiều với rủi ro tín dụng. Tác giả lý luận rằng nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao sẽ khiến ngân hàng khó khăn trong việc đánh giá rủi ro tín dụng doanh nghiệp, kết quả là chất lượng khách hàng vay giảm, dẫn đến nợ xấu tăng. Nkusu (2011) cũng tìm thấy khi chỉ số lạm phát tăng cao sẽ làm nợ xấu tăng cao.

Khác với quan điểm trên, Nabila Zribi và Younes Boujelbène (2011) đã tìm thấy rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng Tunisia có phụ thuộcvào lạm phát và khẳng định lạm phát có tác động ngược chiều đến rủi ro tín dụng.

2.2.2. Nhóm các yếu tố đặc điểm của ngân hàng‌

- Lợi nhuận ròng trên tổng tài sản bình quân


Nghiên cứu của Nabila Zribi và Younes Boujelbene (2011) thực hiện kiểm định các yếu tố tác động đến nợ xấu tại hệ thống ngân hàng Ấn Độ giai đoạn 1995 – 2008 lại tìm thấy bằng chứng cho rằng ROA có mối quan hệ thuận chiều với rủi ro tín dụng. Nhóm tác giả kết luận rằng, các ngân hàng có lợi nhuận cao nhất lại là các ngân hàng có rủi ro lớn nhất.

- Tăng trưởng tín dụng

Trong số các yếu tố đặc điểm ngân hàng có ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng, tăng trưởng tín dụng cũng là một yếu tố quan trọng cần được xem xét. Nghiên cứu của Gabriel Jiménez và Jesus Saurina (2006)cung cấp bằng chứng cho rằng tăng trưởng tín dụng có tác động cùng chiều đến nợ xấu. Trong thời kỳ bùng nổ tín dụng, người vay có rủi ro cao có thể giành được khoản vay và tài sản thế chấp của họ có chất lượng rất thấp. Cuối cùng, rủi ro tín dụng sẽ tăng lên đáng kể trong tương lai.

Khác với quan điểm trên, các nghiên cứu của Sukrishnalall Pasha và Tarron Khemraj (2009), Louzis và cộng sự (2010) cho rằng tăng trưởng tín dụng có tác động ngược chiều đến nợ xấu. Khi các NHTM tăng trưởng tín dụng nhanh, doanh nghiệp tiếp cận vốn vay dễ dàng, mở rộng được hoạt động kinh doanh, hiệu quả kinh doanh cao hơn, dẫn đến khả năng thanh toán nợ vay cao, do đó khả năng ngân hàng phải chịu các khoản nợ xấu sẽ thấp hơn.

Trong khi đó, Ahlem S. M. và cộng sự (2013) lại tìm thấy bằng chứng tăng trưởng tín dụng không có tác động đến nợ xấu tại hệ thống ngân hàng của 3 nước Ý, Hy Lạp và Tây Ban Nha.

- Quy mô ngân hàng

Trong khi Rajiv Ranjan và Sarat Chandra Dhal (2003) tìm thấy quy mô ngân hàng có mối quan hệ ngược chiều với tỷ lệ nợ xấu, S Pasha và T Khemraj (2009); Nabila Zribi và Younes Boujelbene (2011) lại tìm thấy quy mô ngân hàng không có ảnh hưởng đến nợ xấu. Nhóm tác giả cho rằng không phải lúc nào các ngân hàng lớn cũng sàng lọc khách hàng vay hiệu quả hơn các ngân hàng nhỏ.


2.3. Lược khảo các lý thuyết nghiên cứu trước có liên quan đến vấn đề nghiên cứu‌

Trên thế giới có ba xu hướng chính nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng. Xu hướng thứ nhất là nghiên cứu các yếu tố đặc điểm ngân hàng ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Xu hướng thứ hai là nghiên cứu các yếu tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng ngân hàng. Xu hướng thứ ba là nghiên cứu yếu tố đặc điểm ngân hàng và kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng ngân hàng.

2.3.1. Xu hướng nghiên cứu các yếu tố đặc điểm ngân hàng ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng‌

Nor Hayati Ahmad và Shahrul Nizam Ahmad (2004) kiểm tra các yếu tốảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng hồi giáo và ngân hàng thông thường ở Malaysia trong giai đoạn 1996 – 2002. Kết quả nghiên cứu cho thấy, quy mô tổng tài sản có ảnh hưởng đáng kể đến rủi ro tín dụng của ngân hàng hồi giáo. Jiménez, G., và J. Saurina (2006) sử dụng phương pháp ước lượng GMM để kiểm định các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại Tây Ban Nha giai đoạn 1984 – 2002. Kết quả cho thấy, tăng trưởng tín dụng có tác động cùng chiều với nợ xấu.

Nguyễn Minh Kiều và Nguyễn Thị Ngọc Diệp (2015) sử dụng phương pháp hồi quy bình phương bé nhất (OLS) nghiên cứu rủi ro tín dụng của 32 NHTM VN trong giai đoạn 2010 – 2013. Nghiên cứu đã tìm thấy tăng trưởng tín dụng, quy mô ngân hàng và tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động có quan hệ thuận chiều với nợ xấu.

2.3.2. Xu hướng nghiên cứu các yếu tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng‌

Vítor Castro (2013) sử dụng dữ liệu bảng động để nghiên cứu các yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng ngân hàng ở 05 quốc gia châu Âu từ quý I năm 1997 đến quý III năm 2011. Tác giả sử dụng kiểm định Pooled-OLS, Fixed-effects (FE), Random effects (RE) và GMM. Kết quả cho thấy rằng tăng trưởng GDP có tác động ngược chiều với rủi ro tín dụng.


Nkusu (2011) sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng đơn kết hợp với mô hình VAR để nghiên cứu mối liên hệ giữa nợ xấu và các yếu tố vĩ môở 26 nước phát triển trong giai đoạn 1998 – 2009. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tốc độ tăng trưởng GDP có tác động ngược chiều với nợ xấu, tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát có tác động cùng chiều với nợ xấu.

2.3.3. Xu hướng nghiên cứu các yếu tố đặc điểm ngân hàng và kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng‌

Rajiv Ranjan và Sarat Chandra Dhal (2003) thực hiệnphân tích hồi quy dữ liệu bảng kiểm định các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu của các ngân hàng khu vực công ở Ấn Độ trong giai đoạn 1990 – 2003. Kết quả cho thấy rằng, quy mô ngân hàng và tốc độ tăng trưởng GDP có tác động ngược chiều với nợ xấu.

Sukrishnalall Pasha và Tarron Khemraj (2009) sử dụng ước lượng Fixed effect để kiểm định các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu ngân hàng Guyana trong giai đoạn 1994 – 2004. Kết quả cho thấy rằng, tăng trưởng GDP có tác động ngược chiều với nợ xấu. Các tác giả cũng tìm thấy bằng chứng rằng tăng trưởng tín dụng nhanh có tác động cùng chiều với nợ xấu.

Louzis và cộng sự (2010) thực hiện nghiên cứu các yếu tố vĩ mô và yếu tố đặc điểm ngân hàng ảnh hưởng đến nợ xấu của hệ thống ngân hàng Hy Lạp với từng loại vay cụ thể gồm thế chấp, cho vay kinh doanh và cho vay tiêu dùngtừ quý I năm 2003 đến quý III năm 2009. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp ước lượng GMM. Kết quả cho thấy, tốc độ tăng trưởng GDP thực,ROA và ROE có tác động ngược chiều đến nợ xấu.

Gunsel (2011) kiểm định các yếu tố ảnh hưởng rủi ro tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế Bắc Síp giai đoạn 1984 – 2008 với mẫu gồm 24 ngân hàng. Bài nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy chuẩn trong khung dữ liệu bảng. Kết quả cho thấy rằng, quy mô ngân hàng,tốc độ tăng trưởng GDP có tác động ngược chiều đến rủi ro tín dụng. Tỷ lệ lạm phát có tác động cùng chiều với nợ xấu.

Nabila Zribi và Younes Boujelbène (2011) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng ở Tunisia trong giai đoạn 1995 – 2008. Dữ


liệu bảng được thu thập từ báo cáo thường niên và báo cáo tài chính của các ngân hàng Tunisian, thông tin niêm yết trên thị trường chứng khoán và các báo cáo của ngân hàng trung ương Tunisia. Nhóm tác giả sử dụng mô hình Fix effect, Random effect, Hausman test. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ROA có mối quan hệ thuận chiều với rủi ro tín dụng.

Ahlem Selma Messai và Fathi Jouini (2013) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu ngân hàng của 03 nước (Ý, Hy Lạp và Tây Ban Nha) trong giai đoạn 2004 – 2008, những quốc gia có vấn đề sau khủng hoảng cho vay dưới chuẩn năm 2008 và khủng hoảng nợ công. Kết quả cho thấy rằng, tốc độ tăng trưởng GDP, ROA có quan hệ ngược chiều với nợ xấu.

Nguyễn Quốc Anh và Nguyễn Hữu Thạch (2015) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại 26 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2005 – 2013. Nhóm tác giả đã tìm thấy GDP có tác động ngược chiều đến rủi ro tín dụng. Đối với các biến đặc điểm ngân hàng, tỷ lệ nợ xấu năm trước có tác động ngược chiều đến nợ xấu năm hiện tại, ROE có tác động ngược chiều với nợ xấu.

Bảng 2.1. Tóm tắt từ các nghiên cứu trên thế giới các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu của ngân hàng thương mại

Tên tác giả

nghiên cứu

Nội dung nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu

Nor Hayati Ahmad và Shahrul Nizam Ahmad (2004)

Kiểm tra các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng hồi giáo và ngân hàng thông thường ở Malaysia trong giai đoạn 1996

– 2002.

Quy mô tổng tài sản có ảnh hưởng đáng kể đến rủi ro tín dụng của ngân hàng hồi giáo.

Jiménez, G., và

J. Saurina (2006)

Nghiên cứu về chu kỳ tín dụng, rủi ro tín dụng và quy định về an toàn vốn tại hệ thống ngân

hàng Tây Ban Nha giai đoạn

Tăng trưởng tín dụng có tác động cùng chiều với nợ xấu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 92 trang tài liệu này.

Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng trong hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam - 3



1984 – 2002. Bài nghiên cứu

được sử dụng phương pháp ước lượng GMM.


Nguyễn Minh Kiều và Nguyễn Thị Ngọc Diệp (2015)

Nghiên cứu rủi ro tín dụng của 32 NHTM VN trong giai đoạn 2010 – 2013. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp hồi quy bình phương bé nhất (OLS)

Tăng trưởng tín dụng, quy mô ngân hàng và tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động có quan hệ thuận chiều với nợ xấu

Vítor Castro (2013)

Sử dụng dữ liệu bảng động để nghiên cứu các yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng ngân hàng ở 05 quốc gia châu Âu từ quý I năm 1997 đến quý III năm 2011. Tác giả sử dụng kiểm định Pooled-OLS, fixed- effects (FE), random effects

(RE) và GMM.

Tăng trưởng GDP có tác động ngược chiều với rủi ro tín dụng.

Nkusu (2011)

Nghiên cứu mối liên hệ giữa nợ xấu và các yếu tố vĩ mô ở 26 nước phát triển trong giai đoạn 1998 – 2009.Tác giả sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng

đơn kết hợp với mô hình VAR.

Tốc độ tăng trưởng GDP có tác động ngược chiều với nợ xấu, tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát có tác động cùng chiều với nợ xấu.

Rajiv Ranjan và Sarat Chandra Dhal (2003)

Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu của các ngân hàng khu vực công ở Ấn Độ

trong giai đoạn 1990 – 2003.

Quy mô ngân hàng và tốc độ tăng trưởng GDP có tác động ngược chiều với nợ

xấu.

Sukrishnalall

Tác giả sử dụng ước lượng

Tăng trưởng GDP có tác

Ngày đăng: 03/02/2025

Gửi bình luận


Đồng ý Chính sách bảo mật*