Các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt Nam - 5

Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là hành vi nguy hiểm cho xã hội trực tiếp xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ và gây thiệt hại tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người khác. Để đấu đườngtranh phòng chống vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ bằng pháp luật hình sự, Nhà nước quy định tội phạm và hình phạt đối với hành vi này. Theo đó, chỉ những hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ có tính chất nguy hiểm cao, gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác; và hành vi có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời mới bị coi là phạm tội hình sự.

Phương tiện giao thông đường bộ bao gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ. Trong đó:

Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe ô tô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe tương tự, kể cả xe cơ giới chuyên dùng cho người tàn tật. Phương tiện giao thông thô sơ đường bộ gồm các loại không di chuyển bằng sức động cơ như xe đạp, xe xích lô, xe súc vật kéo và các loại xe tương tự.

Vì xe máy chuyên dùng (gồm máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp) khi tham gia giao thông đường bộ cũng phải chấp hành các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Cho nên, xe máy chuyên dùng cũng được coi như phương tiện giao thông đường bộ khi tham gia giao thông.

* Mặt khách quan của tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ bao gồm các yếu tố: hành vi khách quan; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra.

Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là quy định của Luật giao thông đường bộ

về bảo đảm an toàn trong hoạt động của các phương tiện giao thông đường bộ như quy định về:

Việc chấp hành báo hiệu đường bộ; tốc độ và khoảng cách giữa các phương tiện tham gia giao thông; sử dụng làn đường; vượt xe, chuyển hướng xe; lùi xe; tránh xe đi ngược chiều; dừng, đỗ xe trên đường (trong và ngoài đô thị); điều khiển phương tiện giao thông đường bộ qua cầu, phà, trong hầm đường bộ và tại các nơi đường giao cắt; tải trọng và khổ giới hạn của đường bộ; xe kéo xe và xe kéo rơmoóc;

Người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy; người điều khiển và người ngồi trên xe đạp, người điều khiển xe thô sơ khác; người đi bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật đi trên đường bộ;

Và việc tổ chức các hoat động khác trên đường bộ như tổ chức hoạt động văn hóa, thể thao, diễu hành, lễ hội...

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.

Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là người trực tiếp điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ và xe máy chuyên dùng. Để truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự cần xác định những quy định cụ thể nào về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong Luật giao thông đường bộ bị vi phạm.

Thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự, thì hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ chỉ bị coi là phạm tội khi gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác. Theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức

Các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt Nam - 5

khỏe, tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự:

Làm chết một người; gây tổn hại cho sức khỏe của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên; gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%; gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng [21, tr. 28-29].

Giữa hành vi vi phạm và hậu quả xảy ra phải có mối quan hệ nhân quả, có nghĩa là về mặt thời gian, thì hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ phải xảy ra trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội nêu trên. Hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Và hậu quả nghiêm trọng nêu trên là sự hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

Tội phạm hoàn thành từ thời điểm xảy ra thiệt hại về tính mạng, thiệt hại nghiêm trọng cho về sức khỏe, tài sản của người khác.

* Về mặt chủ quan, tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được thực hiện do lỗi vô ý do tự tin hoặc do cẩu thả.

Dưới hình thức lỗi vô ý do tự tin, người vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

Dưới hình thức lỗi vô ý do cẩu thả, người vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ không thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

* Chủ thể của tội phạm: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng; quy định tại khoản 2 và 3 Điều 202 Bộ luật hình sự là tội phạm rất nghiêm trọng; quy định tại khoản 4 Điều 202 Bộ luật hình sự là tội phạm ít nghiêm trọng. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật này, thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Do vậy, chủ thể của tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ quy định tại tất cả các khoản 1, 2, 3, và 4 Điều 202 Bộ luật hình sự là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự là người có đủ khả năng nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, có khả năng điều khiển hành vi theo hướng có lợi hay không có lợi cho xã hội, hoặc có khả năng xử sự khác không gây nguy hiểm cho xã hội. Pháp luật hình sự Việt Nam không quy định thế nào là người có đủ trách nhiệm hình sự. Để xem một người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự phải dựa vào căn cứ quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự "tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự". Như vậy, "loại trừ những người ở tình trạng không đủ năng lực trách nhiệm hình sự, còn lại là những người có năng lực trách nhiệm hình

sự" [3, tr. 29]. Những người không đủ năng lực trách nhiệm hình sự là "người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình" (Điều 13 Bộ luật hình sự). Như vậy, người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự về tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là người có khả năng nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm; và có khả năng điều khiển hành vi của mình.

1.2.1.3. Hình phạt

Điều 202 Bộ luật hình sự quy định bốn khung hình phạt đối với người phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Cụ thể như sau:

- Người nào thực hiện hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trong cho sức khỏe, tài sản của người khác, nếu bị kết án về tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định; trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở... hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng; gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông; gây hậu quả rất nghiêm trọng. Trong đó:

+ Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định là trường hợp người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ không có giấy phép lái xe hoặc bằng lái do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đối với loại phương tiện

đó hoặc tuy đã có nhưng bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi; điều khiển phương tiện giao thông trong thời gian bị cơ quan có thẩm quyền cấm điều khiển.

+ Phạm tội trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có... hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng là trường hợp vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác. Luật giao thông đường bộ năm 2008 cấm "người lái xe đang điều khiển xe trên đường mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở hoặc có các chất kích thích khác mà pháp luật cấm sử dụng" [15, Điều 8]. Để xác định mức độ say hay không say cần đo nồng độ các chất đó trong máu hoặc khí thở của người vi phạm bằng thiết bị chuyên dụng.

+ Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn trách nhiệm là trường hợp sau khi đã gây tai nạn, người phạm tội cố ý bỏ chạy với mục đích che giấu hành vi phạm tội để trốn tránh trách nhiệm của mình trước pháp luật. Trong trường hợp này, tội phạm đã hoàn thành từ thời điểm gây ra tai nạn làm thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác.

+ Cố ý không cứu giúp người bị nạn là trường hợp sau khi đã gây tai nạn, người phạm tội cố ý bỏ mặc người bị nạn không cứu giúp họ mà lẽ ra phải có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết để khắc phục đến mức thấp nhất thiệt hại do họ gây ra về người hoặc về tài sản. Luật Giao thông đường bộ cấm người có điều kiện mà không cứu giúp người bị tai nạn giao thông. Còn Bộ luật hình sự, quy định "cố ý không cứu giúp người bị nạn" là tình tiết định khung hình phạt tại điểm c khoản 2 Điều 202.

+ Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông là trường hợp sau khi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ; người vi phạm vẫn cố tình

tiếp tục điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà không dừng lại, mặc dù đã có hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông. Trong đó, người điều khiển giao thông là cảnh sát giao thông hoặc người được giao nhiệm vụ hướng dẫn giao thông tại nơi thi công, nơi ùn tắc giao thông, ở bến phà, tại cầu đường bộ đi chung với đường sắt.

+ Gây hậu quả rất nghiêm trọng là gây thiệt hại rất lớn cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, thì phạm tội thuộc một trong sáu trường hợp sau đây là "gây hậu quả rất nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự.

Một là, làm chết hai người;

Hai là, gây tổn hại cho sức khỏe của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên; gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%; gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mơi triệu đồng đến dưới năm m- ươi triệu đồng; gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.

Ba là, gây tổn hại cho sức khỏe của ba đến bốn người với tỷ lệ thư- ơng tật của mỗi người từ 31% trở lên;

Bốn là, gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tổng tỷ lệ thư- ơng tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%;

Năm là, gây tổn hại cho sức khỏe của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây hậu quả thuộc một trong

các trường hợp: gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ thơng tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%; gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mư- ơi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mơi triệu đồng đến dưới năm mơi triệu đồng; gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.

Sáu là, gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng.

- Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, thì phạm tội thuộc một trong tám trường hợp sau đây là "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 202 Bộ luật hình sự.

Một là, làm chết ba người trở lên;

Hai là, làm chết hai người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp: gây tổn hại cho sức khỏe của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên; gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%; gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nh- ưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi

Xem tất cả 133 trang.

Ngày đăng: 05/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí