Vô ý vì quá tự tin thể hiện ở chỗ: về lý trí, người phạm tội nhân thức được hành vi của mình vi phạm các quy đinh về trật tự an toàn giao thông đường bộ, những hành vi đó là nguy hiểm và có thể gây ra hậu quả cho xã hội. Nhưng họ tin vào khả năng điều khiển, xử lý của mình và các điều kiện khách quan khác nên cho rằng hậu quả sẽ không xảy ta. Về ý chí, họ không mong muốn cho hậu quả xảy ra, cũng không bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Nhưng kết quả là hậu quả đã xảy ra ngoài ý muốn của họ
Vô ý vì cẩu thả thể hiện ở chỗ, khi thực hiện các hành vi vi phạm trật tự an toàn giao thông, họ không biết là mình vi phạm do không quan sát, không chú ý, thực hiện các hành vi không đúng quy tắc an toàn thể hiện sự bất cẩn, cẩu thả, mặc dù khi tham gia giao thông, khi thực hiện các hành vi liên quan đến giao thông đường bộ, họ buộc phải biết và phải thực hiện các quy tắc an toàn giao thông nên đã gây thiệt hại về tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng về sức khỏe, tài sản của người khác.
Riêng hai tội: Đua xe trái phép và tổ chức đua xe trái phép quy định tại Điều 206 và Điều 207 được thực hiện bằng lỗi cố ý mà cụ thể là cố ý trực tiếp thẻ hiện ở chỗ, những người thực hiện hành vi tổ chức đua xe hoặc đua xe trái phép đều nhận thức được rằng hành vi đua xe không được cho phép của cơ quan có thẩm quyền bị pháp luật cấm. Họ biết được cuộc đua xe do họ tổ chức hay tham gia không có giấy phép nhưng họ vẫn mong muốn thực hiện.
Về động cơ phạm tội, đối với tội tổ chức đua xe trái phép, và đua xe trái phép có nhiều động cơ, mục đích khác nhau như vụ lợi, lấy số má, danh tiếng giang hồ, quy tụ băng nhóm... nhưng không là yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm.
• Về chủ thể tội phạm
Chủ thể của đa số các tội phạm cùng nhóm xâm phạm quy định về trật tự an toàn giao thông đường bộ phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình
sự và từ đủ 16 tuổi trở lên vì các tội phạm quy định tại các điều 202, 203, 204, 205 đều có mức cao nhất của khung hình phạt ở tất cả các khoản tối đa là 15 năm tù (tức đều là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng và đều có lỗi do vô ý). Theo qui định của Luật hình sự Việt Nam những người đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Có hai tội phạm của nhóm này cần có chủ thể đặc biệt đó là tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn (Điều 204) và tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Điều 205). Chủ thể của tội phạm ở đây phải là những người có thẩm quyền đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ hoặc người có thẩm quyền điều động người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ: thủ trưởng đơn vị vận tải, cán bộ kiểm định kỹ thuật...
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ có thể là chủ thể của tội tổ chức đua xe trái phép quy định tại Điều 206 khi hành vi của họ có các tình tiết tăng năng tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 là:
+ Tổ chức đua xe có qui mô lớn: Tập hợp nhiều người, nhiều phương tiện tham gia cuộc đua.
Có thể bạn quan tâm!
- Các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ theo Luật hình sự Việt Nam Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông - 1
- Các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ theo Luật hình sự Việt Nam Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông - 2
- Khái Niệm Và Các Đặc Điểm Của Các Tội Xâm Phạm Trật Tự An Toàn Giao Thông Đường Bộ
- Giai Đoạn Từ Khi Ban Hành Bộ Luật Hình Sự Năm 1985 Đến Trước Khi Pháp Điển Hóa Lần Thứ Hai - Bộ Luật Hình Sự Việt Nam Năm 1999 Tháng 6 Năm 1985, Bộ
- Các Tội Xâm Phạm Trật Tự An Toàn Giao Thông Đường Bộ Trong Bộ Luật Hình Sự Của Một Số Nước Trên Thế Giới
- Thực Trạng Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Về Các Tội Xâm Phạm Trật Tự An Toàn Giao Thông Đường Bộ
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
+ Tổ chức cá cược: dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để cá cược được thua về người đua xe thắng hoặc thua....
+ Tổ chức việc chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép: dùng sức mạnh vật chất chống lại hoặc đe doạ uy hiếp người có trách nhiệm như cảnh sát giao thông, tự vệ, dân phòng... đập phá phương tiện của người làm nhiệm vụ.
+ Tổ chức đua xe nơi tập trung đông dân cư như tổ chức đua xe trong nội thành, nội thị hoặc những nơi đông dân cư khác.
+ Tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phương tiện đua: tháo phanh, còi, đèn, xi nhan....
+ Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác: gây chết người hoặc thương tích, tổn hại cho sức khoẻ của người khác từ 11% trở lên hoặc gây thiệt hại lớn về tài sản.
+ Tái phạm về tội này hoặc tội đua xe trái phép: đã bị kết án về tội này hoặc tội đua xe trái phép, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
+ Tái phạm nguy hiểm hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Đối với tội đua xe trái phép quy định tại Điều 207 khi có các tình tiết tăng năng quy định tại khoản 3 và khoản 4 là tái phạm nguy hiểm hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Đường lối xử lý và chính sách hình sự của Nhà nước ta thể hiện qua việc áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm quy định về trật tự an toàn giao thông đường bộ nhìn chung đã cho thấy thái độ xử lý kiên quyết kết hợp với các biện pháp quản lý giáo dục của Nhà nước đối với các hành vi mang tính nguy hiểm cao hoặc đã gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.
BLHS năm 1999 đã qui định các loại hình phạt chính áp dụng đối với các tội xâm phạm quy định về trật tự an toàn giao thông đường bộ: phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân. Hình phạt bổ sung: phạt tiền (khi không áp dụng là hình phạt chính), cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định...)
Phạm vi áp dụng hình phạt tiền với quy định là hình phạt chính được mở rộng ở tất cả 4 tội có lỗi vô ý. Mức phạt tiền cao nhất là 50 triệu đồng, thấp nhất là 5 triệu đồng.
Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng rộng rãi ở tất cả các tội thuộc nhóm tội phạm xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ mức cao
nhất là 3 năm, mức thấp nhất là 1 năm. Điều này chứng tỏ nhà nước ta đánh giá nhân thân của loại tội phạm này có mức nguy hiểm tương đối, có thể giáo dục cải tạo ngay cả khi không cần cách ly xã hội.
Hình phạt tù có thời hạn được áp dụng ở tất cả các tội nhưng phổ biến là ở mức từ 3 tháng đến 20 năm.
Hình phạt bổ sung: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định cũng được áp dụng phổ biến (3/6 tội) với mức từ 1-5 năm.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.2.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đập tan chế độ thực dân phong kiến, đồng thời thiết lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Để bảo vệ thành quả cách mạnh, ngay sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân, Nhà nước ta đã ban hành nhiều các văn bản pháp luật hình sự quy định các tội chống chính quyền dân chủ nhân dân như: tội âm mưu lật đổ chính quyền, tội gián điệp, tội bạo loạn, tội hoạt động phỉ... trong Sắc lệnh số 21 ngày 14/2/1946. Tuy nhiên, các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ nằm trong hệ thống luật hình sự Việt Nam được quy định muộn hơn nhiều so với các loại tội khác và chưa được quy định trong các văn bản pháp luật hình sự trong thời kỳ này. Như vậy, các tội chống lại chính quyền dân chủ nhân dân ra đời rất sớm, gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong khi đó, các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ có lịch sử ra đời muộn hơn và quy phạm pháp luật quy định các tội phạm này là những quy phạm viện dẫn, nên một số tội trong nhóm các tội này chỉ ra đời khi có các quy định về an toàn giao thông vận tải - đường bộ tức là khi có Luật về giao thông đường bộ.
Sau ngày miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Nhà nước ta tiến hành xây dựng hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật để quản lý xã hội, trong đó có các văn bản pháp luật bảo đảm an toàn giao thông vận tải đường bộ. Ngày 03/10/1955 [24, tr.73], Luật đi đường bộ mới được ra đời kèm theo Nghị định số 348/NĐ của Bộ Giao thông Bưu điện. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta về an toàn giao thông vận tải, tạo cơ sở pháp lý cho sự hình thành các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ. Tiếp theo Nghị định 348/NĐ nói trên, hàng loạt các văn bản pháp lý khác về an toàn giao thông vận tải đã ra đời như: Nghị định số 139/NĐ ngày 19/12/1956; Nghị định số 44/NĐ ngày 27/5/1958 của Bộ Giao thông Bưu điện; Nghị định Liên bộ Giao thông Bưu điện - Công an số 09/NĐLB ngày 07/3/1956 ban hành thể lệ tạm thời về vận tải đường bộ; Nghị định số 10 ngày 11/01/1968 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ về kỷ luật an toàn giao thông vận tải trong thời chiến; Nghị định số 36/CP ngày 29/5/1995 về tăng cường bảo đảm trật tự an toàn giao thông vận tải đường bộ và trật tự đô thị và đến nay là Nghị định số 36/CP ngày 10/7/2001 về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị. Đáng chú ý là ngày 29/6/2001, Quốc hội đã thông qua Luật giao thông đường bộ đầu tiên của Việt Nam. Luật này bắt đầu có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2002.
Các văn bản chuyên ngành nói trên đã tạo cơ sở pháp lý cho sự hình thành và phát triển các quy phạm pháp luật hình sự quy định các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ. Tuy nhiên, phần lớn các văn bản chỉ tập trung vào tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông vận tải (ghép các hành vi xâm phạm đến các lĩnh vực giao thông vào làm một nhóm).
Văn bản pháp luật hình sự đầu tiên của Nhà nước ta điều chỉnh tội vi phạm quy định về nhóm tội phạm này là Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, Điểm 4 của Thông tư nói trên
quy định: "Không cẩn thận hay không theo luật đi đường mà làm người khác bị thương sẽ bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. Nếu gây tai nạn làm chết người thì có thể bị phạt tù đến mười năm" [25, tr.356]. Như vậy, qua nghiên cứu Thông tư này, thấy rõ những nội dung chủ yếu sau đây:
- Chỉ những vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải đường bộ gây thương tích, gây chết người mới bị coi là tội phạm và bị xử phạt. Nếu chỉ gây thiệt hại thuần túy về vật chất không bị coi là tội phạm và không bị xử lý về hình sự;
- Điều luật này quy định tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ với hai khung hình phạt khác nhau; khung 1 quy định - phạt tù từ ba tháng đến ba năm (cấu thành tội phạm cơ bản) được áp dụng cho trường hợp chỉ gây thương tích. Còn khung 2 quy định - phạt tù đến mười năm (cấu thành tội phạm tăng nặng) được áp dụng cho trường hợp gây chết người.
Sau hơn một năm thực hiện Thông tư 442/TTg, ngày 29/6/1956, theo đề nghị của Ban Nội chính Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ra Thông tư số 556/TTg bổ khuyết điểm 4 của Thông tư này. Điểm 4 của Thông tư 556 quy định: Không cẩn thận hay không theo Luật đi đường mà làm người khác bị thương thì sẽ phạt tù từ ba tháng đến ba năm. Nếu gây tai nạn làm chết người thì có thể bị phạt tù đến mười năm. Trong trường hợp gây tai nạn lớn làm chết nhiều người và gây thiệt hại lớn đến tài sản của nhân dân thì có thể bị phạt đến tù chung thân hay tử hình [23, tr.73].
Như vậy, trước ngày giải phóng miền Nam, tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ đều được điều tra, truy tố, xét xử theo Thông tư 442/TTg và Thông tư 556/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Qua xem xét quy định nói trên có thể rút ra một số nhận xét như sau:
- Việc quy định tội phạm này trong pháp luật hình sự ở một chừng mực
nhất định thời đó còn nhiều hạn chế, thể hiện ở chỗ: trật tự ban hành các loại văn bản cũng như nội dung của văn bản không đúng thẩm quyền (Thông tư của Thủ tướng Chính phủ ban hành những nội dung đáng lẽ phải do luật quy định; Bộ trưởng ban hành nghị định...); điều luật quy định tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ còn đơn giản, chưa thể hiện sự phân hóa cao trách nhiệm hình sự (chỉ có 2 khung hình phạt và khoảng cách giữa mức tối thiểu và mức tối đa của các khung hình phạt quá xa nhau; các tình tiết định khung tăng nặng còn bó hẹp trong giới hạn mức độ hậu quả, mà không có các loại tình tiết khác như tình tiết phạm tội trong tình trạng say rượu, gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn... nên không đáp ứng được tính đa dạng, phức tạp của hành vi phạm tội).
- Việc ban hành Thông tư số 556/TTg ngày 29/6/1955 bổ sung cho Thông tư 442/TTg ngày 29/6/1956 có hạn chế lớn về mặt lập pháp và không có hiệu quả. Trong Thông tư này, các nhà lập pháp đã quá nhấn mạnh tới mặt khách quan của tội phạm (dấu hiệu hậu quả của tội phạm), mà không chú ý tới lỗi vô ý của người phạm tội nên chế tài cho tội này quá nghiêm khắc, không phù hợp với bản chất của loại tội có lỗi vô ý và với yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ví dụ: Thông tư 556/TTg ngày 29/6/1956 quy định gây chết 01 người có thể bị phạt tù đến 10 năm (khung 2), gây chết nhiều người và gây thiệt hại lớn về tài sản có thể phạt tù chung thân hoặc tử hình (khung 3). Thực tiễn xét xử từ trước tới nay chưa có bị cáo nào bị phạt tù chung thân hoặc tử hình về tội này. Những bị cáo làm chết 1 người thông thường bị xử tù 3 năm hoặc nhẹ hơn, chưa có trường hợp nào xử phạt đến 10 năm. Điều đó chứng tỏ luật pháp quá xa rời thực tiễn, cần phải được sửa đổi, bổ sung.
Như vậy, trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, việc xử lý hành vi phạm tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ được thực hiện theo hướng dẫn tại Bản sơ kết kinh nghiệm về đường lối xử lý tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn (Công văn số 949/NCPL ngày 25/11/1968 của Tòa án nhân dân tối cao). Theo Bản sơ kết này, thì tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn xâm phạm nền an toàn giao thông - một bộ phận của nền trật tự, trị an - vốn thuộc loại tội khinh xuất. Đối với loại tội này, cần xác định chắc chắn là có hành vi phạm luật lệ giao thông, có hậu quả tác hại cụ thể do hành vi phạm tội gây nên. Tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn thường xảy ra trong phạm vi hoạt động nghề nghiệp của người lái và nói chung là hoạt động của người điều khiển phương tiện vận chuyển.
Ngoài ra, đường lối xử lý đối với người phạm tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn là “trừng trị thích đáng đối với những vi phạm nghiêm trọng, nghiêm trị đúng mức đối với những vi phạm đặc biệt nghiêm trọng, đồng thời kết hợp với thận trọng để xem xét đầy đủ mọi tình tiết một cách toàn diện”, cụ thể:
- Vi phạm nghiêm trọng về luật lệ giao thông vận tải luôn thể hiện trên hai mặt: 1) Người lái xe thiếu tinh thần trách nhiệm không chú ý kiểm tra an toàn của phương tiện vận chuyển, phóng bừa, vượt ẩu, không tuân thủ luật lệ giao thông vận tải; 2) Tai nạn làm thiệt hại đến tài sản của xã hội hoặc tính mạng của nhân dân.
Về mức án, nếu không có tình tiết đáng châm chước, thông thường có thể phạt tới hai năm tù giam, nhưng cá biệt cũng có vụ có thể xử phạt tới ba năm tù giam. Châm chước đối với những vi phạm tuy nghiêm trọng nhưng xảy ra trong những hoàn cảnh đặc biệt của thời kỳ chiến tranh, như: đường sá, cầu, phà xấu vì bị phá hoại, xe chạy ban đêm không được bật đèn, lái xe mới được đào tạo, tay lái non, có ít kinh nghiệm do thời gian phục vụ còn ngắn, chưa kịp xử lý nhiều khó khăn, phức tạp đặc biệt, có khi lại bị mệt mỏi vì phải tăng cường độ lao động do yêu cầu cấp thiết của kế hoạch vận chuyển; địch