khung tăng nặng của tội cố ý gây thương tích”- Phan Hồng Thủy- Tạp chí Kiểm Sát số 12/2004…
Đặc biệt đáng lưu ý trong lĩnh vực này có một công trình nghiên cứu đó là: Luận văn Thạc sỹ Luật học của Bùi Văn Lam về “ Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự việt nam”, bảo vệ Năm 2002 tại trường Đại học Luật Hà Nội. Tác giả Bùi Văn Lam nghiên cứu các tình tiết tăng nặng TNHS, trong đó đề cập đến một số tình tiết như: phạm tội trong thời gian thử thách của án treo, phạm tội trong tình trạng say rượu, phạm tội nhiều lần… tuy nhiên kết quả nghiên cứu đã lâu (cách đây 08 năm), các vấn đề được tác giả đề cập đã được pháp điển hóa hoặc không còn mang tính thời sự.
Còn tác giả của luận văn này sẽ đi sâu phân tích về việc áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS theo khoản 1 điều 48 BLHS như: Xâm phạm tài sản của Nhà nước; Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; Phạm tội vì động cơ đê hèn; Lợi dụng chức vụ để phạm tội; cũng như tác giả sẽ tập trung phân tích nghiên cứu những giải pháp khắc phục những bất cập tại khoản khoản 2 điều 48 BLHS về những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không coi là tình tiết tăng nặng; Giải quyết bài toán về việc xác định “ Tái phạm, tái phạm nguy hiểm” đối với loại tội có quy định tình tiết định tội “ Đã bị kết án về loại tội này, chưa được xóa án tích”…
Thời điểm tập trung nghiên cứu là thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong giai đoạn hiện nay (2001-2009).
3. Phạm vi nghiên cứu
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những chế định phức tạp, có nhiều nội dung liên quan đến các chế định khác nhau trong Bộ luật hình sự như: hình phạt, trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự; tái phạm, tái phạm nguy hiểm, án treo v.v... Bởi vậy, phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ
xem xét và giải quyết một số vấn đề xung quanh các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, mà cụ thể là:
1) Khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;
2) Phân biệt các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự với các chế định khác có liên quan như đối với các tình tiết định tội, định khung.
3) Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam;
Có thể bạn quan tâm!
- Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn - 1
- Bản Chất Và Đặc Điểm Của Các Tình Tiết Tăng Nặng Trách Nhiệm Hình Sự.
- Phân Loại Và Đặc Điểm Các Tình Tiết Tăng Nặng Trách Nhiệm Hình Sự.
- Phân Loại Căn Cứ Vào Ý Nghĩa Pháp Lý Của Các Tình Tiết Tăng Nặng Trách Nhiệm Hình Sự.
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
4) Phân tích nội dung và điều kiện áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành, kết hợp với thực tiễn áp dụng.
Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu nội dung cơ bản của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tác giả của luận văn đi sâu nghiên cứu các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trên phương diện (khía cạnh) lập pháp và việc áp dụng chế định này trong thực tiễn, đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy phạm của chế định này trong pháp luật hình sự Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên trong luận văn này, tác giả tập trung vào giải quyết những nhiệm vụ chính như sau:
1) Phân tích và xây dựng định nghĩa khoa học của khái niệm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết định tội, tình tiết định khung; nghiên cứu và phân tích các đặc điểm cơ bản của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và so sánh nó với các tình tiết định tội, định khung.
2) Khái quát sự hình thành và phát triển của các quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam.
3) Phân tích nội dung, điều kiện áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành và thực tiễn áp dụng các quy định này. Từ đây phân tích một số tồn tại xung quanh việc quy định và áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
4) Luận chứng cho sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, những phương hướng cơ bản của việc hoàn thiện và từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999, đồng thời đưa ra mô hình lý luận với sự bổ sung một số các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cần phải được nhà làm luật nước ta ghi nhận trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin về nhà nước và pháp luật, về tội phạm học, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nguyên tắc xử lý tội phạm. Phép duy vật biện chứng là phương pháp luận để nhận thức bản chất của tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Cặp phạm trù hình thức và nội dung, cái riêng và cái chung là cơ sở để lý giải một số vấn đề lý luận của đề tài như phân biệt hình phạt và trách nhiệm hình sự, phân biệt các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự với các tình tiết định tội, định khung hình phạt...Q uan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là cơ sở phương pháp luận để nhận thức các ảnh hưởng của điều kiện lịch sử đến các quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nhờ đó, người nghiên cứu làm rõ những nét đặc thù và giá trị kế thừa trong các quy định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Qua đó hình dung sự biến đổi biện chứng của chế định này trong lịch sử lập pháp hình sự của nước ta, cũng
như trang bị cách tiếp cận biện chứng trong thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử và phương pháp tổng hợp, cũng như những thành tựu của khoa học Luật hình sự, khoa học luật tố tụng hình sự, xã hội học pháp luật; v.v... trong các công trình của các nhà khoa học-luật gia ở trong và ngoài nước.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong các báo cáo của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số vụ án hình sự trong thực tiễn xét xử và thông tin trên mạng Internet để phân tích và đánh giá, tổng hợp các tri thức khoa học Luật hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã làm rõ khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nội dung và điều kiện áp dụng các các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trên cơ sở xem xét những quy định của pháp luật hình sự hiện hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm của chế định này ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực tiễn.
Đặc biệt, để góp phần nhân đạo hóa hơn nữa kết hợp với trừng trị nghiêm khắc trong chính sách hình sự của Nhà nước ta và để phù hợp với các yêu cầu của thực tiễn xét xử và pháp luật hình sự các nước, tác giả luận văn kiến nghị bổ sung những trường hợp có thể áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chưa được nhà làm luật nước ta quy định trong Bộ luật hình sự. Ngoài ra luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ đang làm công tác thực tiễn trong các cơ quan tiến hành tố tụng,
các cán bộ nghiên cứu khoa học, giảng dạy, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn bao gồm ba chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Chương 2: Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Những phương hướng cơ bản và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
CHƯƠNG 1 :
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ.
I. KHÁI NIỆM CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
Theo Điều 45 BLHS về căn cứ quyết định hình phạt, khi quyết định hình phạt, ngoài căn cứ vào các quy định của BLHS, việc cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, toà án còn phải cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Vậy chúng ta cần làm rõ khái niệm tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS là gì.
Theo Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự nước Cộng hoà XHCN Việt Nam 1999 thì khái niệm tội phạm được định nghĩa như sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một các cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ choc, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.”
Theo luật hình sự Việt Nam, hành vi bị coi là tội phạm được phân biệt với hành vi không phải là tội phạm qua 4 dấu hiệu, đó là: Tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải chịu hình phạt.
Nghiên cứu về mặt cấu trúc, tội phạm có đặc điểm chung là đều hợp thành bởi những yếu tố nhất định, tồn tại không tách rời nhau, những yếu tố đó là: Khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm.
- Khách thể: là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại.
- Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định đã thực hiện hành vi phạm tội.
- Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, bao gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả , mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cũng như các điều kiện bên ngoài khác (công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội…).
- Mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện tâm lý bên trong của tội phạm, bao gồm: Lỗi, mục đích và động cơ phạm tội.
Như vậy, về mặt cấu trúc, tất cả các tội phạm đều phải thoả mãn đầy đủ 4 yếu tố cấu thành tội phạm kể trên. Bất cứ một hành vi phạm tội nào, dù đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng dù có chế tài thế nào cũng đều là thể thống nhất giữa các yếu tố khách quan và chủ quan, giữa những biểu hiện bên ngoài và những quan hệ tâm lý bên trong, đều là hoạt động của con người cụ thể xâm hại hoặc nhằm xâm hại những quan hệ xã hội nhất định.
Lựa chọn hình phạt thích hợp cho các trường hợp phạm tội cụ thể là quá trình hoạt động phức tạp. Trong thực tế, tội phạm thể hiện hết sức đa dạng và phong phú. Xem xét và đánh giá một tội phạm ở khía cạnh lượng hình đòi hỏi
phải xem xét một cách toàn diện trong sự cân nhắc các tình tiết khác cũng có ý nghĩa ảnh hưởng đến tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Điều 45 BLHS 1999 quy định “Khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”. Như vậy các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có ý nghĩa hết sức quan trọng khi quyết định hình phạt.
Qua nghiên cứu cho thấy, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bao gồm những tình tiết làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm hoặc tình tiết làm tăng tình nguy hiểm của nhân thân người phạm tội, do đó, người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự nặng hơn. Những tình tiết đó mang tính chất khách quan, được các nhà làm luật nhận thức và quy định trong BLHS để đảm bảo tính công bằng, tính nghiêm minh của pháp luật hình sự. Trách nhiệm hình sự, hình phạt chỉ đạt được mục đích trừng trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội khi chúng được toà án tuyên tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và người phạm tội.
Tình tiết tăng nặng TNHS là tình tiết làm cho trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong từng trường hợp phạm tội cụ thể cao hơn, thể hiện ở ba mức độ khác nhau: Tội danh nặng hơn; Khung hình phạt cao hơn; Mức hình phạt nặng hơn.
Tội danh nặng hơn được hiểu là tội danh dạng đặc biệt của tội danh cơ bản chung, tức là cấu thành tội phạm của tội danh nặng hơn là một dạng đặc biệt của cấu thành tội phạm cơ bản mà không có tình tiết này thì hành vi đã cấu thành tội phạm cơ bản. Do đó một tội phạm thoả mãn cấu thành tội phạm nặng hơn thì coi như mặc nhiên nó đủ yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản (nhẹ hơn). Hay nói cách khác, cấu thành tội phạm thuộc tội danh nặng hơn chính là tội phạm tăng nặng định tội. Ví dụ như: Tội Cưỡng dâm quy định tại điều 113