Các tình tiết tăng nặng thuộc mặt chủ quan của tội giết người - 12

người bị hại trước, trong và sau khi phạm tội... Trong phần tranh luận, Thẩm phán chủ tọa và các thành viên Hội đồng xét xử phải bảo đảm cho các bên thực hiện đúng trình tự tranh luận, đối đáp. Phải ghi chép đầy đủ để kịp thời phát hiện những biểu hiện né tránh hoặc đối đáp không rõ ràng và yêu cầu các bên trình bày lại. Nếu có tình tiết mới hoặc chưa được làm rõ thì phải quay trở lại phần xét hỏi.

Trong phần nghị án và tuyên án, Thẩm phán chủ tọa và các thành viên Hội đồng xét xử phải thảo luận, đánh giá toàn bộ các chứng cứ, tài liệu đã được kiểm tra công khai tại phiên toà và quyết định theo đa số.

Về đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

Để tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm giết người, Toà án cần tăng cường xét xử lưu động tại nơi xảy ra tội phạm vì hình thức này có tác dụng răn đe, giáo dục rất cao, nhất là ở những nơi xảy ra các vụ án giết người nghiêm trọng. Những vụ án gây hậu quả nghiêm trọng, gây phẫn nộ trong nhân dân cần thiết phải xử lý kịp thời, nghiêm minh, tránh những hiện tượng tiêu cực, nương nhẹ gây ra dư luận xấu trong nhân dân.

Về việc định tội danh

Trong thời gian qua, khi xét xử những vụ giết người mà nạn nhân là người có lỗi và có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội còn có tình trạng bất đồng quan điểm. Có quan điểm định tội phạm giết người, có quan điểm định tội phạm giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, nhưng cũng có quan điểm định tội phạm giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Để định đúng tội danh trong trường hợp này, chúng tôi kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn như sau: 1) Nếu nạn nhân bị giết khi đã thực hiện hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người

phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội hoặc đang thực hiện hành vi trái pháp luật tuy không nghiêm trọng, nhưng có tính chất đè nén, áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, gây ức chế đối với người phạm tội và hành vi này chính là nguyên nhân của trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ở người phạm tội, trong trạng thái tinh thần đó họ đã giết nạn nhân thì định tội phạm giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. 2) Nếu nạn nhân bị giết khi đang thực hiện hành vi trái pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của người phạm tội hoặc của người khác, người phạm tội vì muốn bảo vệ những lợi ích nói trên nên đã giết nạn nhân một cách rõ ràng quá mức cần thiết thì định tội phạm giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Hành vi trái pháp luật chỉ bị coi là nghiêm trọng khi đã thoả mãn 4 yếu tố cấu thành tội phạm.

3) Nếu nạn nhân không có những đặc điểm trên và người giết nạn nhân không xuất phát từ động cơ muốn bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, cũng không trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hoặc tuy trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, nhưng trạng thái tinh thần này không phải do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng hoặc có tính chất đè nén, áp bức tương đối nặng nề của nạn nhân gây ra thì định tội phạm giết người.

Về việc áp dụng tình tiết định khung hình phạt.

Việc áp dụng các tình tiết định khung tăng nặng thuộc mặt chủ quan của tội giết người là rất khó khăn. Bởi lẽ đây là các tình tiết thuộc mặt chủ quan, nên khó nhận biết, khó nắm bắt hơn so với các tình tiết khác. Do đó, khi xét xử các thẩm phán cần đặc biệt chú ý đến các trường hợp này, khi có vướng mắc cần đem ra trao đổi trong cơ quan hoặc nếu cần thiết có thể xin ý kiến từ tòa án cấp trên để có thống nhất nhận thức trong hoạt động áp dụng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.

Về cải cách Tòa án

Thẩm phán là nhân vật trung tâm, là những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ xét xử, quyết định việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Tòa án - công tác xét xử. Chất lượng đội ngũ thẩm phán là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án. Để nâng cao hiệu quả áp dụng tội giết người có các tình tiết tăng nặng thuộc mặt chủ quan trong xét xử trước hết chúng ta cần quan tâm đến chất lượng của đội ngũ Thẩm phán và chất lượng hoạt động của họ. Nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán được xem là nhiệm vụ then chốt có vai trò quyết định hiệu quả của hoạt động xét xử Để đạt được điều đó cần quán triệt các quan điểm sau:

Các tình tiết tăng nặng thuộc mặt chủ quan của tội giết người - 12

Nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán trên cơ sở nâng cao chất lượng hoạt động xét xử, lấy hoạt động xét xử làm trung tâm. Cải cách Tòa án, nâng cao chất lượng hoạt động xét xử là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp. Trong đó, để tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, mang tính đột phá trong công tác cải cách tư pháp thì vấn đề cơ bản là nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán. Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhấn mạnh: "Trọng tâm là xây dựng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân". Tiếp đó, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng lại tiếp tục khẳng định: Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm…

Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND theo hướng: Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm. Tòa án nhân

dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành.

Nghị quyết cũng xác định rõ nhiệm vụ của cải cách tư pháp trong hoạt động tố tụng là tăng quyền hạn, trách nhiệm cho Thẩm phán đề họ thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình. Việc đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán cần phải gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ cải cách, đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành TAND kể trên.

Nâng cao chất lượng Thẩm phán nhằm bảo vệ công lý, bảo đảm quyền con người và bảo vệ pháp chế XHCN. Một trong những yêu cầu của cải cách tư pháp là "các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm". Trong hoạt động xét xử muốn bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ pháp chế XHCN thì Thẩm phán phải độc lập trong hoạt động của mình. Để thực sự độc lập trong hoạt động xét xử, Thẩm phán phải thực sự có đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Nâng cao chất lượng thẩm phán trên cơ sở nâng cao tiêu chuẩn đạo đức, phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn và kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán. Một trong những nội dung rất quan trọng của cải cách bộ máy nhà nước nói chung, cải cách bộ máy các cơ quan tư pháp nói riêng, đó chính là vấn đề con người. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các

cơ quan tư pháp, xét cho cùng, được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả công việc của đội ngũ cán bộ, công chức tư pháp.

Xuất phát từ địa vị pháp lý và yêu cầu đối với hoạt động của Thẩm phán như vậy. Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/1/2002 về Nhiệm vụ trọng tâm của công tác cải cách tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ "Nâng cao tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức và nghề nghiệp chuyên môn của các cán bộ tư pháp…". Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đã đề ra một trong bốn phương hướng lớn để cải cách nền tư pháp nước nhà đó là: xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ; tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số chức danh.

Hoàn thiện quy trình đào tạo, bồi dưỡng và bổ nhiệm đội ngũ Thẩm phán là một trong những giải pháp cấp bách, cần thiết hiện nay. Lãnh đạo cơ quan, đơn vị trong ngành Tòa án phải thấm nhuần các nghị quyết của Đảng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ. Xây dựng đội ngũ Thẩm phán, dự báo đúng tình hình, bám sát yêu cầu của nhiệm vụ chính trị để quy hoạch, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán, chuẩn bị cho trước mắt và lâu dài, đồng thời phải đề phòng nguy cơ sai lầm về đường lối cán bộ; thường xuyên chỉ đạo, nắm bắt tình hình, tranh thủ ý kiến của cấp ủy, chủ động phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan giải quyết kịp thời những vướng mắc trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ Thẩm phán hoặc có báo cáo đề xuất với cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết. Trong đó công tác đào tạo nguồn Thẩm phán cần hết sức chú trọng. Bởi đây là yếu tố quyết định đến vấn đề trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức của

đội ngũ Thẩm phán. Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ chuyên sâu về xét xử hình sự cho Thẩm phán, điều này sẽ đảm bảo đội ngũ này thường xuyên cập nhật các thông tin mới, các văn bản mới cũng nhưng rèn luyện được kỹ năng xét xử trong tình hình mới.

Về những vấn đề liên quan đến nguyên tắc xét xử độc lập của Tòa án

Để đảm bảo nguyên tắc xét xử độc lập của Toà án, trước hết cần tuân thủ quy định tại Điều 184 BLTTHS năm 2003 là bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà. Xóa bỏ tình trạng ba ngành Công an, Kiểm sát, Toà án họp trù bị để thống nhất với nhau trước về tội danh, về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và về điều khoản của BLHS cần áp dụng. Xóa bỏ tình trạng duyệt án hoặc xin ý kiến "chỉ đạo" của Chánh án làm cho phiên toà chỉ còn là hình thức. Mọi ý kiến của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đều phải được xem xét tại phiên tòa. Có như vậy nguyên tắc xét xử độc lập của Tòa án mới được tôn trọng; quyền tự do dân chủ của công dân mới được bảo đảm; niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp nói riêng và nền công lý XHCN nói chung mới được củng cố./.

KẾT LUẬN


Qua nghiên cứu về nội dung của đề tài cho thấy tình cần thiết của việc nghiên cứu đề tài. Theo BLHS hiện hành, những tình tiết tăng nặng thuộc mặt chủ quan của tội giết người được quy định tại khoản 1 Điều 93 bao gồm năm trường hợp: giết người vì lý do công vụ của nạn nhân, giết người để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác, giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân, thuê giết người, giết người vì động cơ đê hèn.

Trong thời gian qua, tội phạm giết người thuộc các trường hợp trên ngày một gia tăng với nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt, tội phạm liên quan đến hành vi giết người có tổ chức, nhiều tổ chức phạm tội giết người, chống người thi hành công vụ phức tạp khi khiếu kiện đất đai… đã gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Từ số phạm nhân phạm tội giết người với những tình tiết tăng nặng thuộc mặt chủ quan: giết người vì lý do công vụ của nạn nhân, giết người để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác, giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân, thuê giết người, giết người vì động cơ đê hèn đang thụ án tại các trại giam cho thấy tội phạm giết người, đặc biệt là số vụ án giết người có tình tiết tăng nặng thuộc mặt chủ quan tăng mạnh.

Một trong những nguyên nhân hạn chế sự ngăn chặn, phòng ngừa việc phát sinh tội phạm giết người với những tình tiết tăng nặng thuộc mặt chủ quan thời gian qua có thể kể đến đó là phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm của xã hội, cộng đồng dân cư phòng, chống những hành vi bạo lực nhiều nơi còn yếu, kém. Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng này một phần do áp dụng pháp luật chưa nghiêm, một phần do quy định của pháp luật chưa khuyến khích được người dân tham gia phong trào phòng chống tội phạm khiến cho một số nơi nhân dân mất niềm tin vào pháp luật.

Việc chọn vấn đề nghiên cứu đề tài “Các tình tiết tăng nặng thuộc mặt

chủ quan của tội giết người” đã nghiên cứu hành vi phạm tội giết người với những tình tiết tăng nặng thuộc mặt chủ quan: giết người vì lý do công vụ của nạn nhân, giết người để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác, giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân, thuê giết người, giết người vì động cơ đê hèn. Đây là những trường hợp giết người mà trong thời gian qua có sự đột biến tăng cả về số vụ việc và số lượng bị cáo bị truy tố, xét xử. Trong thực tiễn xét xử còn có nhiều quan điểm vướng mắc, chưa thống nhất về các tình tiết tăng nặng thuộc mặt chủ quan của tội giết người giữa các cấp Tòa án và giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Luận văn góp phần làm sáng tỏ những những khó khăn vướng mắc trong đường lối đấu tranh và phòng, chống tội phạm giết người có các tình tiết tăng nặng thuộc mặt chủ quan theo quy định của pháp luật hình sự.

Đề tài nghiên cứu thể hiện ở ba nội dung chính. Thứ nhất, phân tích được một số vấn đề chung về các tình tiết tăng nặng thuộc mặt chủ quan của tội giết người trong Luật Hình sự Việt Nam. Thứ hai, phân tích được thực trạng áp dụng pháp luật đối với các tình tiết tăng nặng này. Thứ ba, đề xuất được các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về các tình tiết tăng nặng thuộc mặt chủ quan của tội giết người.

Kết quả nghiên cứu đề tài chỉ mong đóng góp một phần nhỏ vào sự hoàn thiện kho tàng lý luận pháp lý nói chung. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu còn ngắn, kinh nghiệm nghiên cứu chưa nhiều nên đề tài chắc chắn còn những nhược điểm nhất định. Rất mong nhận được sự đánh giá, đóng góp của các bạn đọc.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/01/2023