Các thiết chế quản lý đô thị Thăng Long thế kỷ XVI - XVIII - 2

trình vận hành của các hoạt động kinh tế - xã hội đương thời tại Thăng Long - Kẻ Chợ.

Trong các nghiên cứu của học giả nước ngoài về lịch sử Thăng Long - Hà Nội, đáng chú ý có Luận án Tiến sĩ chuyên ngành nghiên cứu Ấn Độ và vùng Viễn Đông của Phillipe Papin [1997]: Des "villages dans la ville" aux "villages urbains". Ľ espace et les formes du poivoir à Ha-noi de 1805 à 1940 (Từ những làng trong thành phố đến những ngôi làng đô thị hoá. Không gian và các hình thức quyền lực ở Hà Nội từ 1805 đến 1940). Đây là giai đoạn lịch sử Thăng Long - Hà Nội, lịch sử Việt Nam nói chung có nhiều biến động. Từ vị trí kinh đô thời Lê, Thăng Long trở thành thủ phủ Bắc thành thời Tây Sơn và đầu thời Nguyễn, tỉnh thành Hà Nội thời Minh Mạng và thủ phủ của Liên bang Đông Dương thời thuộc Pháp, bước vào thời kỳ cận đại hoá, chuyển mình mạnh mẽ theo mô hình đô thị phương Tây. Bối cảnh đó đã tác động sâu sắc tới vấn đề tổ chức, quản lý hành chính đô thị.

Ngoài ra còn có những nghiên cứu khác, gồm các tập sách và chuyên luận công bố trên các tạp chí (Nghiên cứu lịch sử, Khảo cổ học, Xưa và Nay...) của nhiều tác giả (Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê, Trần Huy Bá, Nguyễn Khắc Đạm, Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Thừa Hỷ, Nguyễn Vinh Phúc...). Những năm sáu mươi, bẩy mươi của thế kỷ trước, các tác giả quan tâm và tập trung làm rò vấn đề quy mô, vị trí và chức năng của hệ thống thành luỹ Thăng Long qua các thời kỳ, triều đại. Từ khoảng những năm tám mươi cho đến nay, các vấn đề về dân cư, các hoạt động kinh tế, sinh hoạt văn hoá, quản lý hành chính...bắt đầu được chú ý nhiều hơn so với giai đoạn trước đó.

Gần đây, trong quá trình triển khai đề tài khoa học KX09.02: Thăng Long - Hà Nội với vai trò trung tâm chính trị, hành chính của đất nước - những bài học về quản lý và phát triển do PGS.TS Vũ Văn Quân chủ trì, đã có một số khoá luận Cử nhân khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) như: Quy hoạch, tổ chức bộ máy và hoạt động quản lý hành chính Đông Kinh thời Lê Sơ (1428 - 1527) của Phan Trắc Thành Động [2006], Tổ chức và quản lý thành Thăng Long thời Lê - Trịnh (1592 - 1789) của Đinh Thị Mai [2006]. Tuy nhiên, do giới hạn bởi phạm vi và quy mô của một khóa luận tốt

nghiệp, các khóa luận này cũng mới đề cập những nét chung, nổi bật của vấn đề tổ chức, quản lý, đặc biệt là thiết chế quản lý đô thị Thăng Long.

Như vậy, dù đã có nhiều công trình nghiên cứu nhưng những chuyên khảo về Thăng Long - Kẻ Chợ giai đoạn XVI - XVIII chưa thật nhiều, nhất là chưa có nghiên cứu nào chọn vấn đề thiết chế quản lý Thăng Long thời Mạc và Lê - Trịnh làm đối tượng nghiên cứu trực tiếp và chuyên sâu.

3. Mục đích nghiên cứu

Với việc tập hợp, phân tích các nguồn tư liệu lịch sử, luận văn mong muốn khắc hoạ một cách hệ thống vấn đề tổ chức và hoạt động quản lý đô thị Thăng Long - Kẻ Chợ với vai trò trung tâm chính trị - hành chính đất nước, dưới tác động của các nhân tố, các biến động về chính trị - kinh tế và xã hội của qua ba thế kỷ XVI, XVII và XVIII.

Thông qua việc tìm hiểu vấn đề quản lý đô thị trong một giai đoạn lịch sử kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp, khuyến nghị, góp phần phục vụ công cuộc xây dựng và quản lý đô thị Việt Nam nói chung và của Thủ đô Hà Nội hiện nay nói riêng.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 225 trang tài liệu này.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài thuộc lĩnh vực quản lý đô thị, trong đó, tập trung vào việc tìm hiểu quá trình thiết lập và hoàn bị cơ cấu đơn vị hành chính và bộ máy quản lý các cấp. Trong đó có các vấn đề từ đào tạo, tuyển chọn, bổ dụng quan lại, nhiệm vụ, chức trách của các cấp quản lý, nguyên tắc tổ chức, giám sát hoạt động quản lý. Cơ chế tự quản - tự trị trong một số lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá, tổ chức cộng đồng cư dân đô thị...

Những nội dung trên được thể hiện trong quá trình thực thi các lĩnh vực quản lý đô thị Thăng Long - Kẻ Chợ (quản lý dân cư, hoạt động kinh tế, tài nguyên môi trường, quản lý trật tự an ninh đô thị...) tại Thăng Long - Kẻ Chợ ba thế kỷ XVI, XVII và XVIII. Ngoài những năm đầu thế kỷ XVI dưới triều Lê Sơ và cuối thế kỷ XVIII dưới triều Tây Sơn, đây là giai đoạn tương đương với thời kỳ nắm quyền tại Thăng Long của nhà Mạc và nhà Lê - Trịnh.

Các thiết chế quản lý đô thị Thăng Long thế kỷ XVI - XVIII - 2

Về giới hạn không gian hành chính, Thăng Long giai đoạn này gồm hai huyện Quảng Đức (thời Nguyễn đổi là Vĩnh Thuận) và Vĩnh Xương (sau đổi là Thọ Xương) thuộc phủ Phụng Thiên, tương đương với địa bàn các quận trung tâm của Thủ đô Hà Nội hiện nay: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng và Đống Đa và Tây Hồ.

5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu

5.1 Các nguồn tài liệu

Thăng Long là trung tâm chính trị - hành chính, trung tâm kinh tế, văn hóa của cả nước, tài liệu thư tịch biên chép, phản ánh các sự kiện, các lĩnh vực hoạt động của đời sống diễn ra hoặc liên quan đến kinh đô phong phú, đa dạng hơn so với nhiều địa phương khác. Tuy nhiên, do những biến động lịch sử, so với thời Nguyễn và các giai đoạn sau đó, nguồn tư liệu phản ánh vấn đề thiết chế quản lý đô thị còn lại không nhiều và đầy đủ.

Tài liệu thư tịch cổ tham khảo và trích dẫn trong luận văn gồm nhiều loại: các bộ chính sử, văn bản pháp luật, văn bia, các tác phẩm chí, tác phẩm văn học... do các sử quan, học giả đương thời tập hợp, biên soạn trong thời Lê - Trịnh và thời Nguyễn.

Đại Việt sử ký toàn thư, là bộ chính sử do Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê biên soạn theo thể biên niên, dựa trên bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu soạn thời Trần và Đại Việt sử ký của Phan Phu Tiên biên soạn giữa thế kỷ XV.., chép lịch sử dân tộc từ kỷ Hồng Bàng trong truyền thuyết đến hết năm 1675, được khắc in lần đầu vào năm Chính Hoà 18 (1697). Đây là bộ quốc sử lớn và sớm nhất của nước ta còn lại đến ngày nay. Giá trị của Đại Việt sử ký toàn thư là ở chỗ, công trình đã cung cấp một nguồn sử liệu gốc cơ bản nhất về lịch sử dân tộc, không riêng cho sử học mà còn rất nhiều ngành khoa học xã hội khác.

Về kết cấu, bộ sử ký được chia thành 2 phần: Ngoại kỷ gồm 5 quyển, phần Bản kỷ 19 quyển. Phần Bản kỷ lại chia thành 3 phần: Bản kỷ toàn thư, Bản kỷ thực lục và Bản kỷ tục biên. Trong luận văn này, chúng tôi tham khảo và trích dẫn các ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư từ quyển 14 thuộc Bản kỷ thực lục đến hết quyển 19 phần Bản kỷ tục biên.

Khâm định Việt sử thông giám cương mục, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn trong 25 năm (1856 - 1881), in xong năm Kiến Phúc 1 (1884). Đây là bộ thông sử đồ sộ, chép lịch sử Việt Nam từ thời dựng nước đến năm 1789. Sách gồm 52 quyển, chia thành 2 phần: Tiền biên và Chính biên. Khi biên soạn, Cương mục chủ yếu dựa vào ghi chép của Đại Việt sử sứ ký toàn thư, đồng thời có bổ sung thêm sự kiện từ ghi chép của một số tài liệu dã sử, thi văn tập của Việt Nam và sử Trung Quốc. Ngoài ra, Cương mục còn có thêm nhiều phần khảo cứu và chú giải địa danh rất giá trị, là sự bổ sung và tiếp nối quan trọng của Đại Việt sử ký toàn thư.

Lịch triều tạp kỷ (Hậu Lê lịch triều tạp kỷ), do Ngô Cao Lãng biên soạn, gồm 6 quyển, chép từ năm Dương Đức 1 (1672) đến năm Chiêu Thống 3 (1789), cũng được xem là bộ sử nối tiếp của Đại Việt sử ký toàn thư. Lịch triều tạp kỷ được biên soạn theo thể biên niên, tuy nhiên, giá trị về mặt sử liệu của nó ở chỗ công trình là một nguồn sử liệu khá phong phú, trên nhiều lĩnh vực chính trị, luật pháp, kinh tế, văn hoá, các sinh hoạt xã hội... được tác giả trình bày khá cụ thể, giúp cho người nghiên cứu có được những nhận thức phong phú, đầy đủ hơn về giai đoạn lịch sử này.

Việt sử cương mục tiết yếu, do Đặng Xuân Bảng biên soạn, bắt đầu từ thời kỳ Hùng Vương dựng nước, kết thúc khi nhà Tây Sơn chấm dứt (1802). Công trình này tập trung vào việc ghi chép điển chương chế độ của các triều đại, về địa danh lịch sử, sự biến động về lãnh thổ qua các thời kỳ lịch sử.

Bên cạnh các bộ chính sử biên soạn theo thể biên niên còn có các nguồn sử liệu quan trọng, cung cấp nhiều thông tin liên quan đến các chế độ điển chương, luật lệ, quy chế quan lại...trong giai đoạn này như: Quốc triều hình luật, Hồng Đức thiện chính thư, Lê triều chiếu lịnh thiện chính, Lê triều quan chế, Lê triều cựu điển, Lê triều hội điển.

Quốc triều hình luật (Lê triều hình luật, Luật Hồng Đức) - bộ luật hình quan trọng và chính thống nhất của triều Lê, gồm 13 chương, cộng lại có 722 điều, phân làm 6 quyển. Quốc triều hình luật là bộ luật xưa nhất, đầy đủ nhất của nước ta hiện nay còn lưu giữ được. Bên cạnh những điều luật quy định chung, Quốc triều hình luật có nhiều điều khoản áp dụng riêng cho việc tổ chức bộ máy quản lý và hoạt

động trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quản lý an ninh trật tự tại kinh thành.

Bổ sung cho Quốc triều hình luật Lê triều quan chế, chưa rò tác giả của bộ sách này. Về niên đại biên soạn, căn cứ vào nội dung sách có nhắc đến niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1786), có thể xác định sách được biên soạn sớm nhất là vào cuối thế kỷ XVIII hoặc đầu thế kỷ XIX. Về nội dung, Lê triều quan chế chép các quy định về chức tước, phẩm trật của quan văn, vò ở triều đình và địa phương. Đây là một tài liệu tham khảo bổ ích, cung cấp những chi tiết mà các sách chép về quan chế đời Lê chưa đề cập đến hoặc đề cập nhưng chưa cụ thể, chi tiết.

Lê triều chiếu lịnh thiện chính gồm tập hợp các văn bản chiếu lệnh, sắc dụ quy định và liên quan đến các chế độ điển chương, luật lệ, quy chế quan lại, luật pháp...ban hành từ năm Vĩnh Tộ 7 (1625) đến niên hiệu Chính Hoà (1680 - 1705) đời Lê Hy Tông. Nội dung các chiếu lệnh, sắc dụ chép trong Lê triều chiếu lịnh thiện chính gồm những quy định cụ thể, các điều cấm răn, quy định thưởng phạt áp dụng cho nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, từ tổ chức bộ máy quan lại, việc duyệt tuyển, khảo khoá, việc tô thuế, tài dụng, định chế cho hình pháp, khoa cử đến các lĩnh vực của đời sống sinh hoạt hàng ngày. Chính vì vậy, đây là một tài liệu rất có giá trị giúp cho việc tìm hiểu các chủ trương, biện pháp cũng như hiệu quả quản lý đất nước của chính quyền Lê - Trịnh.

Một công trình quan trọng khác là Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, bộ sách gồm 49 quyển. Tác giả dùng phương pháp biên soạn theo thể “chí”, các nội dung được tập hợp, phân loại, sắp xếp theo 10 loại chí, gồm: Dư địa chí, Nhân vật chí, Quan chức chí, Lễ nghi chí, Khoa mục chí, Quốc dụng chí, Hình luật chí, Binh chế chí, Văn tịch chí Bang giao chí. Trong từng loại "chí", các tư liệu, sự kiện - nhất là thời Hậu Lê - được Phan Huy Chú trình bày khoa học, phản ánh được tương đối đầy đủ các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước, trong đó có Thăng Long.

Ngoài ra, các tác phẩm văn học sử viết theo lối tùy bút, ký như: Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ, Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái... là những tư liệu quý, góp phần bổ sung cho nguồn tư liệu chính thống. Qua những tác phẩm này, đời sống xã hội Thăng Long thời kỳ Lê

- Trịnh, từ các sinh hoạt diễn ra trong phủ chúa, đời sống thường nhật của tầng lớp công hầu, nho sĩ và dân chúng, không gian thành Thăng Long cách đây hơn hai trăm năm... được phác họa một cách sinh động.

Trong quá trình thực hiện, chúng tôi còn tham khảo và trích dẫn một số tài liệu Hán Nôm khác như văn bia, hương ước. Hiện bia ký có niên đại thế kỷ XVI - XVIII ở Hà Nội, nhất là khu vực thuộc hai huyện Quảng Đức, Vĩnh Xương/Thọ Xương còn không nhiều (một phần trong số này đã được tuyển dịch và công bố trong Tuyển tập văn bia Hà Nội (2 tập) và Văn khắc Hán Nôm Việt Nam). Thông tin cung cấp từ tư liệu này khá phong phú.

Bên cạnh các tài liệu thư tịch cổ do các tác giả trong nước biên soạn, phải kể đến các tập du ký của nhiều tác giả nước ngoài từng đến Thăng Long trong hai thế kỷ XVII - XVIII, có thể kể đến: Jean Baptiste Tavernier với Tập du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài, W. Dampier: Một chuyến du hành sang Bắc Kỳ năm 1688, Charles B. Maybon: Một thương điếm Anh ở Đông Kinh (Tonkin) trong thế kỷ XVII (1672 - 1679) Người châu Âu ở An Nam. Dựa trên những sự việc, nhân vật bản thân tiếp xúc hoặc chứng kiến, các thương nhân, giáo sĩ truyền đạo đến từ châu Âu trong các ghi chép của mình đã cung cấp những hiểu biết về lịch sử, văn hoá - xã hội của Đàng Ngoài nói chung cũng như Thăng Long thời kỳ Lê - Trịnh nói riêng.

5.2 Phương pháp nghiên cứu

Từ nội dung, mục đích nghiên cứu, với việc tập hợp các nguồn tư liệu, luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic để tổng hợp, so sánh, đối chiếu các nguồn tư liệu nhằm tái hiện, nhận thức sâu sắc hơn về vấn đề cơ cấu, tổ chức quản lý đô thị, từ chính sách đào tạo, tuyển dụng, các lĩnh vực quản lý và hiệu quả quản lý Thăng Long - Kẻ Chợ trong ba thế kỷ XVI - XVIII

6. Đóng góp của luận văn

- Vấn đề tổ chức và quản lý đô thị Thăng Long - Kẻ Chợ thông qua các nguồn tư liệu được trình bày một cách toàn diện, hệ thống, qua đó góp phần nhận diện Thăng Long ở một giai đoạn phát triển phồn thịnh.

- Rút ra những bài học lịch sử trong vấn đề quản lý và phát triển đô thị, đề xuất một số quan điểm, giải pháp tổ chức và phát triển Thủ đô trong thời kỳ hiện đại hoá, công nghiệp hoá, hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.‌

7. Bố cục luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục và phụ lục, nội dung chính của luận văn được bố cục thành ba chương:

Chương 1: Các nhân tố tác động đến quản lý đô thị Thăng Long thế kỷ XVI - XVIII

Chương 2: Các thiết chế quản lý đô thị Thăng Long thế kỷ XVI - XVIII

Chương 3: Hoạt động quản lý đô thị Thăng Long thế kỷ XVI - XVIII

CHƯƠNG 1

CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUẢN LÝ ĐÔ THỊ THĂNG LONG THẾ KỶ XVI - XVIII

1.1 Các nhân tố tự nhiên

Cuộc sống của con người ngay từ khi tiến xuống khai phá, định cư và lập nên những làng xóm đầu tiên trên vùng đất Hà Nội cổ cho đến khi Thăng Long - Hà Nội trở thành trung tâm chính trị - hành chính, kinh tế - văn hoá của đất nước luôn chịu sự tác động, chi phối bởi các nhân tố tự nhiên (bao gồm các đặc điểm về địa chất, địa hình, khí hậu, thuỷ văn...).

Trong các nhân tố tác động (tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội), môi trường tự nhiên là nhân tố mang tính chất hằng xuyên, góp phần hình thành và để lại dấu ấn trong lối sống, thế ứng xử, tập quán sản xuất, tổ chức đời sống cộng đồng...

1.1.1 Đặc điểm địa chất, địa hình

Ở vị trí trung tâm của tam giác châu thổ Bắc Bộ, có độ cao trung bình 5- 20m so với mực nước biển, đặc điểm địa hình Hà Nội là sự thấp dần từ Bắc xuống Nam, và từ Tây sang Đông, tạo thành một vùng vòng ở trung tâm, các nhà địa chất hiện đại gọi đó là "trũng Hà Nội" hay "vòng Hà Nội".

Về mặt địa chất, vỏ trái đất khu vực này không những "mỏng" hơn so với những nơi khác mà tại đó còn xuất hiện các vệt chia cắt do kết quả của hiện tượng đứt gãy sâu. Những đặc điểm này khiến cho cường độ chuyển động của vỏ trái đất ở "trũng Hà Nội" thường khá lớn - đây chính là nguyên nhân gây ra các trận động đất trong lịch sử. Đại Việt sử ký toàn thư Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép rất nhiều lần động đất tại Thăng Long, riêng thời Lê - Trịnh, ít nhất đã có 5 lần vào tháng 4 năm Mậu Ngọ (1678), tháng 12 năm Ất Sửu (1685), tháng 5 năm

Tân Sửu (1721), tháng 2 năm Đinh Hợi (1767) và tháng 1 năm Giáp Ngọ (1774).

1.1.2 Đặc điểm khí hậu, thuỷ văn

Thời tiết và sự vận hành các mùa trong năm diễn ra ở Thăng Long mang đặc trưng chung của khí hậu miền Bắc: đó là vùng nhiệt đới gió mùa, mùa hè nóng,

Xem tất cả 225 trang.

Ngày đăng: 14/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí