Cần Bổ Sung Quy Định Về Phương Pháp Tiến Hành Hòa Giải

Tòa án tiến hành mở phiên hòa giải tại trụ sở làm việc của TAND thụ lý vụ việc dân sự. Trường hợp trong vụ việc dân sự có đương sự không thể có mặt tại trụ sở Tòa án để tham gia hòa giải thì Thẩm phán có thể quyết định mở phiên hòa giải bên ngoài trụ sở Tòa án nhưng phải được ghi rò trong thông báo về phiên hòa giải và ngoài những thành phần phiên hòa giải theo quy định tại Điều 184 của BLTTDS, bắt buộc phải có sự tham gia của chính quyền địa phương và đại diện gia đình hoặc đại diện cơ quan quản lý trực tiếp của đương sự.

3.2.1.4. Cần bổ sung quy định về phương pháp tiến hành hòa giải

Phương pháp tiến hành hòa giải là cách thức mà Tòa án áp dụng để điều chỉnh phiên hòa giải nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Để đảm bảo quyền tự quyết định của đương sự, luật TTDS điều chỉnh các quan hệ giữa Tòa án với các đương sự phát sinh trong quá trình tố tụng bằng phương pháp định đoạt. Nhưng mỗi giai đoạn của quá trình tố tụng, Tòa án phải có những phương pháp đặc thù. Để việc hòa giải đạt hiệu quả cao nhất, Thẩm phán cần phải áp dụng rất nhiều phương pháp như: điều tra, phân tích, tổng hợp... Do vậy, cần phải có quy định về phương pháp tiến hành hòa giải trong BLTTDS để định hướng cho các Thẩm phán thực hiện trong quá trình hòa giải vụ việc dân sự, tránh trường hợp mỗi người tiến hành theo một cách dẫn đến việc hòa giải không đạt kết quả.

3.2.1.5. Cần sửa đổi, bổ sung quy định về thành phần phiên hòa giải

Theo quy định tại Điều 184 của BLTTDS thì thành phần tham gia hòa giải bao gồm: Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải, Thư ký Tòa án ghi biên bản hòa giải, các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự và người phiên dịch nếu đương sự không biết tiếng Việt. Như đã nêu trên, quy định này đã dẫn đến việc tranh cãi về vấn đề là có phải đưa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vào tham gia phiên hòa giải hay không? Có Thẩm phán khi hòa giải đã đưa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương

sự vào tham gia phiên hòa giải nhưng có Thẩm phán lại không đưa họ vào tham gia phiên hòa giải.

Theo đánh giá tại Hội nghị tổng kết công tác thi đua của ngành Tòa án 6 tháng đầu năm 2009, Chánh án TANDTC đã khen ngợi những đơn vị có tỷ lệ án hòa giải thành cao. Đặc biệt, Chánh án đã đưa ra bài học kinh nghiệm là có một số đơn vị đã biết vận dụng đưa cả đại diện nội, ngoại của hai bên đương sự cùng các ban ngành ở địa phương vào tham gia hòa giải nên kết quả hòa giải thành rất cao. Tuy vậy, đây là một thực tiễn. Để thực hiện thống nhất phải có quy định của pháp luật.

Song quy định về thành phần tham gia hòa giải tại Điều 184 của BLTTDS là quy định khép kín. Vì vậy, phải sửa quy định này thành quy định mở. Theo đó, ngoài những thành phần bắt buộc như điều luật này đã quy định, Tòa án có thể mời thêm những thành phần khác nếu thấy cần thiết.

3.2.1.6. Cần sửa đổi, bổ sung quy định về nội dung hòa giải

Nội dung hòa giải chính là những vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Mỗi một vụ án lại có nội dung hòa giải khác nhau. Điều 185 của BLTTDS quy định về nội dung hòa giải, song nội dung của điều luật lại nói về trình tự của phiên hòa giải. Mặc dù mỗi vụ việc dân sự lại có nội dung hòa giải khác nhau, nhưng các nhà làm luật có thể phân chia các tranh chấp ra làm nhiều nhóm khác nhau để quy định nội dung hòa giải cho từng nhóm, hoặc có thể quy định mang tính định hướng để Tòa án có tiêu chí để áp dụng một cách thống nhất.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

3.2.1.7. Cần bổ sung quy định về án phí trong từng giai đoạn hòa giải thành

Theo quy định tại Điều 131 của BLTTDS thì trước khi mở phiên tòa, Tòa án tiến hành hòa giải nếu các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí mà họ phải chịu

Các qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam 2004 về hòa giải vụ việc dân sự và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội - 13

theo quy định của pháp luật [34]. Như vậy, trước khi mở phiên tòa, các đương sự hòa giải thành thì họ phải chịu 50% mức án phí mà họ phải chịu theo quy định của pháp luật, còn khi Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử mà tại phiên tòa sơ thẩm, các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì họ vẫn phải chịu 100% án phí.

Quy định này không khuyến khích các đương sự tự thỏa thuận hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm. Đồng thời, quy định này cũng gây khó khăn cho các Thẩm phán khi quyết định mức án phí trong trường hợp các đương sự hòa giải thành trước khi mở phiên tòa. Hơn nữa, nếu chỉ áp dụng một mức án phí chung như vậy cũng là không phù hợp. Bởi lẽ, khi Tòa án mở phiên hòa giải lần đầu thì thường Tòa án chưa phải mất nhiều thời gian, công sức để giải quyết vụ án. Còn khi Tòa án đã tiến hành thẩm định, định giá tài sản thì cũng có nghĩa là Tòa án đã xác minh, thu thập đầy đủ chứng cứ để sẵn sàng đưa vụ án ra xét xử, việc hòa giải sau khi định giá mang tính chất tạo điều kiện lần cuối để các đương sự có cơ hội hòa giải với nhau. Do vậy, mức án phí của vụ án hòa giải thành tại mỗi thời điểm phải khác nhau. Có thể hoàn thiện theo hướng sau:

- Nếu các đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án ngay từ lần hòa giải đầu tiên thì họ phải chịu một khoản án phí theo một mức quy định cứng.

- Nếu các đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án sau khi Tòa án đã tiến hành định giá tài sản thì họ phải chịu 50% mức án phí mà họ phải chịu theo quy định của pháp luật.

- Nếu tại phiên tòa sơ thẩm, các đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án thì họ phải chịu 75% mức án phí mà họ phải chịu theo quy định của pháp luật.

3.2.1.8. Cần bổ sung quy định về hòa giải việc dân sự

BLTTDS hiện hành không quy định về hòa giải việc dân sự. Do vậy, thực tiễn áp dụng giữa các Thẩm phán rất khác nhau. Có những Thẩm phán vẫn tiến hành hòa giải với một số việc dân sự. Chẳng hạn, khi đương sự yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn, Thẩm phán vẫn hòa giải để các đương sự về đoàn tụ với nhau hoặc trường hợp đương sự yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn, Thẩm phán cũng hòa giải để họ rút yêu cầu, đảm bảo sự ổn định cuộc sống cho đứa trẻ… Song cũng có một số Thẩm phán cho rằng pháp luật không có quy định nên không tiến hành hòa giải. Quan niệm như vậy sẽ không phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

Vì vậy, cần thiết phải bổ sung quy định về hòa giải việc dân sự theo hướng sau:

- Quy định những việc dân sự phải tiến hành hòa giải. Chẳng hạn, khi Tòa án thụ lý giải quyết việc dân sự về hôn nhân và gia đình thì bắt buộc phải tiến hành hòa giải. Đối với các yêu cầu khác, Tòa án có thể hòa giải nếu thấy cần thiết. Trường hợp không hòa giải được mới quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự.

- Quy định thủ tục tiến hành hòa giải. Có thể quy định theo hướng: Tòa án áp dụng các quy định của Bộ luật này về thủ tục tiến hành hòa giải vụ án dân sự để hòa giải việc dân sự.

- Quy định về việc ra quyết định trong trường hợp hòa giải thành các việc dân sự theo hướng: Trường hợp các đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về nội dung yêu cầu của đương sự thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự. Trường hợp trong quá trình hòa giải người yêu cầu tự nguyện rút yêu cầu thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự…

3.2.1.9. Cần bổ sung quy định về việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ngoài Tòa án

Đa số các ý kiến cho rằng, BLTTDS không điều chỉnh những vấn đề ngoài Tòa án nên Tòa án không thể công nhận những thỏa thuận của đương sự ở ngoài Tòa án. Thực tiễn khi giải quyết các vụ việc dân sự, ngoài việc hòa giải do Tòa án tiến hành, các đương sự cũng có thể tự thỏa thuận hoặc hòa giải với nhau thông qua người trung gian thứ ba khác, nhưng họ muốn Tòa án công nhận sự thỏa thuận của họ bằng một quyết định.

Ví dụ 1: Nguyễn Thị Minh cho Nguyễn Anh Khoa vay 100.000.000đ. Đến hạn, anh Khoa không trả tiền cho chị Minh. Chị Minh đến đòi nợ anh Khoa, anh Khoa nhất trí trả nợ cho chị Minh nhưng xin kéo dài thời gian trả nợ là 1 năm và nhất trí trả lãi cho chị Minh theo mức lãi suất do Ngân hàng công bố tương ứng với từng thời điểm. Hai bên đồng ý với thỏa thuận này, họ muốn Tòa án công nhận sự thỏa thuận đó của họ bằng một quyết định nhưng lại không muốn khởi kiện vụ án vì trong vụ án đòi nợ thì mức án phí đã quá rò ràng và họ cũng đã tự nguyện thỏa thuận nên không cần sự can thiệp của Tòa án. Với vụ việc này, hiện nay tại Tòa án tồn tại hai quan điểm khác nhau:

- Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tòa án có thể thụ lý việc dân sự và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của họ với mức lệ phí của việc dân sự.

- Quan điểm thứ hai cho rằng, nếu họ muốn Tòa án ra quyết định thì phải khởi kiện vụ án dân sự và mức án phí được tính là 50% mức án phí mà họ phải chịu theo quy định của pháp luật.

Tác giả đồng tình với quan điểm thứ nhất vì ở đây, Tòa án chỉ phải mở phiên họp để xem xét thỏa thuận của họ xem có phải do các bên tự nguyện không, có phù hợp với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội không rồi ra quyết định công nhận thỏa thuận của họ mà không cần phải làm các thủ tục khác.

Ví dụ 2: Hà Văn Quý kiện đòi chia di sản thừa kế với Hà Văn Kết và Hà Thị Hằng. Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, các đương sự đã tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng nguyên đơn không muốn

rút đơn vì sợ sau khi rút đơn, các đương sự sẽ thay đổi ý kiến nên họ muốn Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của họ. Song nếu Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của họ thì họ phải chịu rất nhiều án phí trong khi Tòa án chưa phải làm gì cả.

Đối với trường hợp này, một số Thẩm phán đã thuyết phục các đương sự để cho "chắc ăn" thì phải chấp nhận nộp 50% án phí để Tòa án ra quyết định. Song có một số Thẩm phán rất thông minh đã gợi ý cho đương sự làm biên bản thỏa thuận chia tài sản chung, trong đó ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự rồi nguyên đơn rút đơn để Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án. Như vậy, các đương sự cũng không phải chịu nhiều án phí và Tòa án cũng không lúng túng trong việc ra quyết định mà đương sự cũng yên tâm vì biên bản chia tài sản chung sẽ có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được công chứng hoặc chứng thực.

Từ sự phân tích trên có thể thấy rằng, cần thiết phải bổ sung quy định về việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ngoài Tòa án.

Trong điều kiện kinh tế thị trường nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay, bên cạnh việc mở rộng và phát huy vai trò của các hình thức hòa giải tranh chấp như: hòa giải ở cơ sở, hòa giải thông qua trọng tài..., nên chăng từng bước hình thành chế định Thẩm phán hòa giải tại các TAND cấp huyện với các thủ tục giải quyết đơn giản cho các vụ việc dân sự không phức tạp, tranh chấp về tài sản có giá trị không lớn... Việc xác lập chế định Thẩm phán hòa giải sẽ góp phần giải quyết nhanh chóng các tranh chấp mà không phải qua thủ tục tố tụng phức tạp, thậm chí Tòa án có thể chỉ là người làm chứng cho việc thỏa thuận của các bên tranh chấp nếu được các đương sự yêu cầu và công nhận các thỏa thuận đó nếu không trái pháp luật [28, tr. 145].

3.2.2. Các kiến nghị về thực hiện pháp luật tố tụng dân sự

Hệ thống pháp luật dù có được hoàn thiện đến đâu đi chăng nữa nhưng nếu không được thực hiện một cách nghiêm chỉnh trên thực tế thì cũng không có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Để nâng cao hiệu quả áp

dụng chế định hòa giải trong thực tiễn, cần phải thực hiện một số giải pháp sau đây.

3.2.2.1. Kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam 2004, trong đó có chế định hòa giải

Thực tiễn xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật chứng minh rằng không phải bất cứ quy định nào của Hiến pháp, luật, pháp lệnh cũng đều rất cụ thể, rò ràng mà còn có những quy định mang tính nguyên tắc, chung chung, rất khó áp dụng trong thực tiễn cuộc sống. Trong lĩnh vực TTDS cũng vậy. Cho nên, để hiểu và áp dụng đúng, thống nhất những quy định đó đòi hỏi phải có sự giải thích của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Xuất phát từ thực tiễn áp dụng BLTTDS cho thấy: giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, giữa những người thực thi công vụ thi hành pháp luật, những người chấp hành pháp luật và đặc biệt là giữa các Thẩm phán, trong một số trường hợp đã không nhận thức thống nhất về một quy phạm pháp luật cụ thể hoặc có thể do quy phạm pháp luật quy định không được cụ thể, rò ràng nên dù hiểu được tinh thần chính thống của quy phạm pháp luật đó, song lợi dụng sự sơ hở, sự chưa chặt chẽ nên đã hiểu sang một cách khác có lợi cho mình. Nhà nước ta đòi hỏi mọi người phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật nên mọi quy phạm pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Trong thực tiễn áp dụng BLTTDS về hòa giải vụ việc dân sự cho thấy có một số quy định trong Bộ luật còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Ví dụ 1: Việc ra quyết định đối với vụ án ly hôn trong trường hợp hòa giải thành, vợ chồng về đoàn tụ nhưng nguyên đơn không rút đơn. Trường hợp này có hai cách hiểu khác nhau:

- Cách hiểu thứ nhất cho rằng, nên ra quyết định công nhận hòa giải đoàn tụ thành, bởi lẽ đây là một trường hợp đặc thù.

- Cách hiểu thứ hai cho rằng, chỉ có thể ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự vì pháp luật không quy định có thể ra quyết định khác trong trường hợp hòa giải thành.

Ví dụ 2: Điều 311 của Bộ luật quy định: "Tòa án áp dụng những quy định của Chương này, đồng thời áp dụng những quy định khác của Bộ luật này không trái với những quy định của Chương này để giải quyết việc dân sự...". Với quy định này đã có hai quan điểm khác nhau về vấn đề hòa giải việc dân sự.

- Quan điểm thứ nhất cho rằng, theo quy định tại Chương 13 Phần thứ hai BLTTDS thì việc hòa giải chỉ áp dụng cho các vụ án dân sự, còn các việc dân sự thì Bộ luật này không quy định Tòa án phải hòa giải. Do vậy, khi giải quyết các việc dân sự, Tòa án không phải tiến hành hòa giải, kể cả việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản... [20].

- Quan điểm thứ hai cho rằng, việc hòa giải việc dân sự không trái với quy định của BLTTDS thì vẫn được ghi nhận. Trong một số trường hợp, khi giải quyết việc dân sự, Tòa án tiến hành hòa giải để đương sự thỏa thuận với nhau về một số vấn đề cần giải quyết [12].

Vậy cần hiểu các quy định của pháp luật trong các ví dụ trên như thế nào? Tất nhiên, câu trả lời chính xác nhất đó là cần phải có sự giải thích, hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền.

Hàng năm, TANDTC đều có hội nghị tổng kết rút kinh nghiệm toàn ngành và đưa ra những quan điểm hướng dẫn đối với một số vụ án cụ thể để các Tòa án có căn cứ giải quyết các vụ việc tương tự. Song đó chỉ là những quan điểm chỉ đạo của các tòa chuyên trách của TANDTC, không phải là văn bản hướng dẫn thi hành nên việc áp dụng thường bị hạn chế.

Trong những năm gần đây, Viện Khoa học xét xử thuộc TANDTC thường xuyên yêu cầu các Tòa án tổng hợp những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật để Viện tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền ban hành các văn

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 27/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí