Ngày 26/03/2004, Cộng đồng châu Âu (EC) đệ trình văn bản yêu cầu được tham gia đối thoại. Ngày 31/03/2004, Nhật Bản cũng có yêu cầu tương tự. Ngày 1/04/2004, Mêxicô và vùng lãnh thổ Đài Loan, Penghu, Kinmen và Matsu có chế độ hải quan riêng (gọi tắt là Trung Hoa Đài Bắc-WTO) đồng loạt yêu cầu được tham gia đối thoại chung với Mỹ.
Ngày 28/04/2004, phía Trung Quốc có văn bản thông báo với DSB (Cơ quan giải quyết tranh chấp thương mại của WTO) về việc nước này chấp thuận yêu cầu tham gia đối thoại của EC, Nhật Bản và Mêxicô.
Ngày 14/07/2004, Trung Quốc và Mỹ thông báo bằng văn bản với DSB về việc hai bên đã đạt được một thoả thuận chung về vấn đề do phía Mỹ nêu ra trong yêu cầu tham vấn.
Theo thông báo chung Mỹ - Trung, phía Trung Quốc đồng ý điều chỉnh hoặc bãi bỏ các biện pháp gây tranh chấp để tiến tới xoá bỏ chế độ hoàn thuế VAT áp dụng đối với mặt hàng IC được sản xuất và tiêu thụ trên lãnh thổ Trung Quốc trước ngày 01/11/2004, đối với mặt hàng IC được thiết kế trong nước nhưng sản xuất tại nước ngoài trước ngày 01/12/2004. Các điều chỉnh của Trung Quốc bắt đầu có hiệu lực từ các ngày tương ứng là 01/04/2005 và ngày 1/10/2004.
Ngày 05/10/2005, Trung Quốc và Mỹ thông báo bằng văn bản lên DSB về việc hai bên đã đạt được thoả thuận về các điều khoản của thoả thuận đã được tiến hành thông suốt, và do đó hai bên đã đạt được thoả thuận song phương về các biện pháp hữu hiệu để giải quyết các vấn đề tranh chấp do phía Mỹ nêu.
2.5 Nhận xét về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO từ góc độ các nước đang phát triển
Lợi ích từ việc gia nhập WTO là điều không phải nghi ngờ đối với tất cả các nước thành viên, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong số đó có lợi ích từ việc tiếp cận được một cơ chế giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả trên cơ sở các quy định của DSU. Tuy nhiên, tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, với vị thế là những nước yếu, dù được dành cho những ưu
đãi nhất định, các nước thành viên đang phát triển cũng gặp phải không ít các khó khăn. Từ góc độ các nước đang phát triển có thể đánh giá về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO với những thuận lợi và khó khăn như sau:
Về thuận lợi, do cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là một cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương mang tính bắt buộc mà ở đó, tất cả các thành viên đều có khả năng tiếp cận bình đẳng và các phán quyết được đưa ra trên cơ sở luật pháp thay vì dựa vào thế lực kinh tế, việc trở thành chủ thể có thể tham gia vào hệ thống này, về mặt lý thuyết, có thể coi là một lợi ích đặc biệt dành cho các nước thành viên đang phát triển và các nước thành viên nhỏ. Mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất định, nhìn chung, trong cơ chế này, các nước nhỏ, yếu có vị thế bình đẳng với các nước lớn, mạnh. Thực tế đã chứng minh điều đó qua nhiều vụ tranh chấp mà kết quả là các nước lớn phải rút bỏ các biện pháp bị các nước thành viên đang phát triển kiện là không phù hợp với quy định của WTO.
Một điều kiện thuận lợi khác dành cho các nước thành viên đang phát triển đó là có thể áp dụng những quy định ưu đãi như đã trình bày trên đây trong tiến trình giải quyết tranh chấp. Các quy định ưu đãi về tiến trình thời gian giải quyết tranh chấp cũng như được ưu đãi trong việc sử dụng các hỗ trợ pháp lý dành cho các nước đang phát triển giúp giảm bớt những khó khăn cho các nước đang phát triển trong việc theo đuổi các vụ kiện thường là rất phức tạp và kéo dài của WTO. Đặc biệt phải kể đến sự hỗ trợ pháp lý của Trung tâm tư vấn luật WTO, đã bắt đầu hoạt động từ tháng 10/2001. Với phương thức trợ giúp pháp lý cho các nước thành viên đang phát triển thông qua (i) đào tạo các viên chức chính phủ về luật của WTO, và (ii) cung cấp tư vấn pháp lý về luật của WTO, Trung tâm tư vấn luật WTO đã tiến hành hỗ trợ pháp lý cho nhiều vụ việc tranh chấp liên quan đến các nước đang phát triển và giúp các nước này thành công.
Có thể bạn quan tâm!
- Vụ Ds 122: Thái Lan - Thép Rầm Hình Chữ H (Chống Bán Phá Giá)
- Vụ Ds231: Pê-Ru - Cá Mòi (Các Biện Pháp Thương Mại Liên Quan Đến Xuất Khẩu)
- Vụ Ds 273: Hàn Quốc – Tàu Thương Mại (Trợ Cấp)
- Việt Nam Và Cơ Chế Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Của Wto
- Các nước đang phát triển và cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của WTO - 10
- Các nước đang phát triển và cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của WTO - 11
Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.
Phát huy những thuận lợi trên, các nước đang phát triển đã tham gia nhiều hơn, chủ động hơn và gặt hái được nhiều thành công hơn trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Mặc dù các nước tham gia phần lớn là các nước đang phát
triển lớn và có mức độ phát triển cao hơn như Braxin, Ấn độ, Mêhicô, Hàn Quốc, Thái Lan và Ác hen ti na, việc các nước đang phát triển sử dụng ngày càng nhiều hơn đến cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO cho thấy cơ chế này đã trở nên ngày càng hữu ích hơn đối với các nước đang phát triển. Một số chiến thắng của các nước đang phát triển như Braxin, Veneduela, Costa Rica, Pê-ru trong các tranh chấp thương mại với các nước phát triển, buộc các nước này phải thay đổi chính sách kinh tế thương mại trong nước cho phù hợp với các quy định của WTO theo phán quyết của DSB càng khẳng định về hiệu quả của cơ chế này đối với các nước đang phát triển.
Mặc dù vậy, so với các nước phát triển, các nước đang phát triển vẫn gặp nhiều khó khăn hơn trong việc sử dụng một cách hiệu quả cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Những khó khăn này xuất phát một phần từ chính những quy định còn hạn chế của cơ chế giải quyết tranh chấp và một phần lớn hơn là từ bản thân nội lực của các nước đang phát triển.
Về khó khăn, khó khăn trước hết phải kể đến là xét từ bản thân các quy định về đối xử đặc biệt và khác biệt của DSU dành cho các nước đang phát triển. Thực tế đã chứng minh rằng các quy định này mang tính tuyên bố nhiều hơn là thực tiễn [8]. Có thể lấy một số ví dụ, Điều 4.10 DSU quy định về “sự quan tâm đặc biệt” đối với các vấn đề và lợi ích cụ thể của các nước đang phát triển trong quá trình tham khảo ý kiến. Tuy nhiên khái niệm này không có nội dung thực tế và không được thể hiện rõ trong các báo cáo của cơ quan giải quyết tranh chấp. Mặc dù vấn đề này đã được đề cập đến trong một cuộc họp của DSB nhằm giúp đỡ các nước đang phát triển song đã không có sự thảo luận một cách triệt để để có thể có một kết quả rõ ràng. Một thực tế nữa là mặc dù các điều khoản về đối xử đặc biệt và khác biệt đã được một số Ban hội thẩm xem xét (khoảng 10 trường hợp) nhưng việc xem xét đó cũng không mang lại những kết quả hay những lợi ích cần phải đạt được cho các nước đang phát triển. Trong vụ Sò, tranh chấp giữa Chilê và EC, Chilê va Pê-ru đã yêu cầu thành lập một uỷ ban về buôn bán sò để có thể bảo vệ được các lợi ích chính đáng của Chilê và Pê-ru
trong vụ kiện song EC đã loại bỏ vấn đề này khỏi chương trình nghị sự của DSB với lập luận rằng khoảng thời gian cho việc lấy ý kiến và đưa vào trong chương trình nghị sự đã không được tôn trọng. Tuy nhiên, theo Chilê, EC đã không xem xét vấn đề là các ý kiến của Chilê đã được bắt đầu thực hiện từ khi EC đồng ý cho Chilê tham gia vào việc tư vấn do Canada tổ chức về cùng vấn đề. Theo đó, Chilê đã yêu cầu tiếp tục trao đổi để giải quyết vấn đề này phù hợp với tinh thần và quy định tại điều 3.7, 4.2 và 4.5 của DSU song yêu cầu này đã không được EC xem xét, thể hiện sự phân biệt đối xử với Chilê, trái với quy định tại điều
4.10 của DSU [1].
Một vấn đề khác xuất phát từ bản thân hệ thống gây khó khăn cho các nước thành viên đang phát triển đó là quy trình giải quyết tranh chấp, theo quy định, là một quy trình phức tạp và kéo dài. Đây là một trong những nhược điểm hay bị chỉ trích của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO gây bất lợi cho tất cả các bên tham gia và càng bất lợi hơn cho các nước đang phát triển. Nếu tất cả các thời hạn được thực hiện đúng thì một tranh chấp cũng kéo dài gần 3 năm. Quá trình này có thể được kéo dài hơn nếu thời gian biểu không được giữ đúng hay có sự không nhất trí về việc thực hiện. Ví dụ, tranh chấp về chuối đã kéo dài hơn 4 năm. Trong khoảng thời gian một tranh chấp đang được phân xử, các nước có thể duy trì luật không phù hợp với WTO, đôi lúc gây nhiều thiệt hại cho các thành viên khác của WTO. Điều này có thể tác động đến các nước đang phát triển một cách không cân xứng vì họ thường ít đa dạng hoá hàng xuất khẩu hơn và có thể phụ thuộc vào hàng xuất khẩu sang một thị trường nhất định.
Ngoài ra, các điều khoản trong DSU liên quan đến việc giám sát thực hiện các khuyến nghị và quyết định của DSB cũng quá yếu, không thể hiện được những điểm khác nhau giữa khả năng dành cho các nước phát triển và các nước đang phát triển. Quy định tại Điều 21.7 DSU về việc khi một vấn đề được một nước đang phát triển nêu ra, DSB sẽ xem xét hành động tiếp theo sao cho phù hợp với hoàn cảnh cũng chưa từng được áp dụng bởi lẽ điều kiện tiên quyết để áp dụng là nước đó phải dùng các nguồn lực để phân tích và theo đuổi vụ việc.
Sự trợ giúp kỹ thuật đối với các nước đang phát triển theo quy định tại Điều 27.2 chỉ được thực hiện bởi một số nhà tư vấn và thực tế là rất không đủ do số lượng quá lớn và ngày càng tăng các vụ tranh chấp được đưa ra giải quyết theo WTO trong khi số lượng các chuyên gia tư vấn thì hết sức hạn chế. Hơn nữa, phạm vi hỗ trợ của Ban Thư ký WTO đối với các nước đang phát triển cũng bị hạn chế vì không thể thiên vị, họ cũng cần phải thực hiện các yêu cầu tư vấn từ phía các quốc gia phát triển. Cứu cánh hữu hiệu nhất cho các nước đang phát triển có lẽ chỉ là Trung tâm tư vấn luật của WTO như đã trình bày ở trên.
Liên quan đến thực thi các phán quyết, việc thực hiện cưỡng chế thực thi các phán quyết của cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích chính đáng của các nước đang phát triển thực sự gặp nhiều khó khăn trên thực tế. Theo quy định của DSU, chế tài duy nhất cho việc cưỡng chế thực thi mà quy trình giải quyết tranh chấp của WTO cho phép đó là trả đũa thương mại - tức là sự áp đặt những biện pháp thương mại phân biệt đối xử của nước khiếu nại đối với thương mại của nước vi phạm. Nếu một nước không chịu tuân theo phán quyết của Ban hội thẩm hay Toà Phúc thẩm, hay không chịu bồi thường thì bên khiếu kiện có thể, về cơ bản, có thể đưa ra trừng phạt thương mại. Tuy nhiên, các biện pháp trả đũa dưới hình thức trừng phạt thương mại không có tính hệ thống đối với các nước đang phát triển vì hai lý do. Thứ nhất, hầu hết các nước đang phát triển không đủ sức mạnh kinh tế để đe doạ bằng các trừng phạt thương mại với tư cách là một công cụ quan trọng để ép buộc tuân thủ các Hiệp định WTO. Đe doạ bằng trừng phạt thương mại từ một nước đang phát triển chắc chắn là không hiệu quả như một đe doạ từ EU hay Mỹ. Mặc dù vậy, điều này khác nhau giữa các nhóm nước đang phát triển. Các nước đang phát triển lớn như Trung Quốc hay Ấn Độ rất có thể sẽ sử dụng đe doạ trừng phạt thương mại. Thứ hai, nếu một nước đang phát triển áp dụng trừng phạt đối với một nước phát triển, điều này có thể cuối cùng làm thiệt hại hơn cho nước đang phát triển. Việc sử dụng trừng phạt thương mại như một công cụ hữu hiệu đối với việc tuân thủ Hiệp định WTO là dựa vào quan niệm của chủ nghĩa trọng thương rằng xuất khẩu là tốt và nhập khẩu là xấu đối
với một quốc gia. Trên thực tế, các nước đang phát triển thường phụ thuộc vào hàng xuất khẩu từ các nước phát triển. Trong trường hợp tranh chấp chuối giữa Ecuado và EU. Ecuado đã "chiến thắng" trong tranh chấp này nhưng EU đã không thực hiện phán quyết ngay lập tức. Vì Ecuado đã đánh giá rằng trừng phạt thương mại (thuế quan trừng phạt) sẽ làm cho Ecuado chịu tổn thất lớn hơn so với EU, nên nước này đã yêu cầu quyền huỷ bỏ quyền của EU theo các Hiệp định WT0 khác (kể cả Hiệp định về Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại). Ban hội thẩm đã phê chuẩn yêu cầu của Ecuado nhưng, vì EU cuối cùng đã điều chỉnh luật, nên Ecuado đã không áp dụng trừng phạt. Một ví dụ khác, giả sử nước thắng kiện là nước nhỏ và nghèo như Việt Nam và nước thua kiện là Mỹ. Sau khi có phán quyết của DSB, giả sử Mỹ không tuân thủ phán quyết và theo quy định thì Việt Nam được quyền trả đũa thương mại ở mức độ thiệt hại tương ứng. Nếu Việt Nam bị thiệt hại khoảng 1 tỷ USD/năm do việc Mỹ không tuân thủ phán quyết. Trong bối cảnh này, ít ai không nhận ra việc trả đũa hợp pháp của Việt Nam đối với thương mại Mỹ với trị giá là 1 tỷ USD hầu như không có ý nghĩa gì so với việc Mỹ xuất khẩu trên 10.000 tỷ USD/năm. Trong khi đó, 1 tỷ USD thiệt hại đối với xuất khẩu Việt Nam là một con số quá lớn. Tất nhiên, có nhiều nhóm nước đang phát triển với các quy mô kinh tế khác nhau, chẳng hạn như các nước đang phát triển lớn như Trung Quốc hay Ấn Độ, Braxin có nhiều khả năng sử dụng hiệu quả hơn biện pháp trả đũa thương mại. Trong nhiều trường hợp, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, do bị sức ép trong nước nên các nước phát triển sẵn sàng chấp nhận bị áp dụng các biện pháp trả đũa. Suy cho cùng biện pháp trả đũa đã đem lại cho các nước phát triển một lợi thế lớn hơn so với những nước đang phát triển vốn không thể sử dụng nó một cách hữu hiệu.
Bên cạnh khó khăn xét từ những hạn chế nhất định của cơ chế giải quyết tranh chấp cũng cần phải kể đển những khó khăn trong việc tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp từ bản thân các nước đang phát triển. Đây chính là những khó
khăn thực sự mà các nước đang phát triển phải nỗ lực vượt qua nếu muốn tiếp cận và sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO một cách có hiệu quả.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp theo WTO, mặc dù các nước đang phát triển đã có những thay đổi đáng kể về chính sách thương mại, họ vẫn luôn phải đối mặt với những thách thức to lớn khi tiếp cận và sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, trong đó có ba thách thức cơ bản, bao gồm: (i) thiếu các chuyên gia am hiểu về luật của WTO nói chung, giải quyết tranh chấp theo WTO nói riêng; (ii) hạn chế về nguồn lực tài chính; và (iii) sức ép về kinh tế, chính trị. Có thể nói tóm gọn là khó khăn về pháp lý, về tài chính và chính trị [16]. Quy trình giải quyết tranh chấp theo cơ chế của WTO, như trên đã nêu là một quy trình hết sức phức tạp và đòi hỏi nhiều về năng lực pháp lý, chính sách thương mại và hành chính để có thể sử dụng một cách hiệu quả. Để bảo vệ lợi ích thương mại quốc gia thông qua giải quyết tranh chấp, một nước phải có năng lực xác định lợi ích thương mại. Điều này liên quan đến việc kiểm tra các lập luận, các vấn đề, các khả năng và so sánh các kinh nghiệm, kết quả để tìm ra những lý lẽ pháp lý cũng như các lập luận kinh tế mới. Ngoài ra, ở trong nước cần phải xây dựng được một mối liên hệ hiệu quả và minh bạch giữa nhà nước và ngành nhằm cập nhật được các thông tin về các rắc rối thương mại mà các nước đang phát triển có quyền lợi liên quan. Các nước đang phát triển đòi hỏi cần phải có những chuyên gia có trình độ cao cùng các nguồn lực tài chính khác để tiến hành các hoạt động này. Những yêu cầu này có thể là gánh nặng to lớn đối với các nước đang phát triển. Chi phí để có được các chuyên gia luật bên ngoài là rất cao, Hơn nữa, chi phí theo đuổi các vụ khiếu kiện cao hơn một cách không tương xứng đối với những nước đang phát triển hạn chế về các nguồn lực. Nói cách khác, những lợi ích tiềm năng từ việc theo đuổi một vụ kiện với một nền kinh tế nhỏ là rất thấp so với chi phí bỏ ra. Việc thiếu nguồn lực ở các nước đang phát triển trong lĩnh vực tương ứng ngăn cản họ trong việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp, hay ít nhất là sử dụng không hiệu quả. Theo đó, không có gì đáng ngạc nhiên là hầu
hết các vụ kiện được các nước đang phát triển theo đuổi là các nước có chuyên môn cao về luật và chính sách thương mại như Ấn Độ, Braxin và Hàn Quốc. Bên cạnh đó, sức ép về chính trị trong mối quan hệ có phần không tương xứng giữa các nước thành viên đang phát triển và các nước phát triển cũng là một hạn chế đáng kể khiến các nước đang phát triển khó có thể thành công trong các tranh chấp thương mại với các nước phát triển, điển hình như việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành phán quyết như đã phân tích ở trên.
Những phân tích trên cho thấy, điều đáng quan tâm nhất chính là mặc dù cơ chế giải quyết tranh chấp được thiết lập theo DSU tỏ ra khá công bằng, không nghiêng về bên nào song, với vị thế yếu hơn, đặc biệt về tài chính và năng lực chuyên môn, các nước đang phát triển và kém phát triển thực sự chưa được hưởng những lợi ích công bằng theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Để có thể vận dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của WTO một cách có hiệu quả, bảo vệ được những lợi ích chính đáng của mình trong quan hệ thương mại quốc tế, các nước đang phát triển sẽ cần phải nỗ lực hơn nữa để vượt qua được những khó khăn to lớn đã nêu. Ngoài ra, bản thân các quy định của DSU cũng cần phải được cải cách để khắc phục tình trạng mất cân đối trong các quy trình giải quyết tranh chấp của WTO đang nghiêng về các nước phát triển. Một số cải cách đã được các nhà nghiên cứu đưa ra như quy định về việc đền bù cho những thiệt hại đã xảy ra, các hình thức khác của trả đũa thương mại [1][13]. Mặc dù vậy, các cải cách này vấn đang được xem xét và đến thời điểm này, do những bế tắc của vòng đàm phán Doha nên việc liệu cơ chế này có được cải cách theo hướng có lợi cho các nước đang phát triển hay không vẫn là điều chưa chắc chắn. Và điều mà các nước đang phát triển cần phải thực hiện là tìm cách khắc phục những khó khăn mang tính chủ quan để có thể vận dụng được cơ chế này một cách hiệu quả hơn.