Việt Nam Và Cơ Chế Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Của Wto

CHƯƠNG 3. VIỆT NAM VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI CỦA WTO

3.1 Việt Nam trong các tranh chấp thương mại quốc tế trước khi vào WTO

Trước khi là thành viên của WTO, Việt Nam đã phải đương đầu với khá nhiều vụ tranh chấp thương mại quốc tế. Tổng số vụ tranh chấp thương mại quốc tế mà Việt Nam phải đối phó trong thời gian qua lên đến gần 30 vụ, trong đó đa phần là các vụ kiện chống bán phá giá và Việt Nam thường là bên bị kiện. Riêng trong năm 2004 có đến 6 vụ kiện chống phá giá đối với Việt Nam. Giai đoạn từ năm 2004-2005 là năm kỷ lục về số vụ bán phá giá do các thị trường như EU, Achentina, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Pê-ru khởi kiện doanh nghiệp Việt Nam [10]. Các vụ tranh chấp điển hình có thể kể đến như vụ kiện thương hiệu cá da trơn và vụ kiện bán phá giá tôm ở Mỹ, vụ kiện bán phá giá xe đạp và giầy ở EU, vụ kiện bán phá giá bật lửa ga ở Hàn Quốc,… Nước khởi kiện nhiều nhất đối với Việt Nam là EU (chín vụ), tiếp đến là Mỹ (hai vụ), Canada (hai vụ), còn lại là Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Pê-ru. Các sản phẩm bị kiện của Việt Nam chủ yếu là những mặt hàng xuất khẩu lớn như cá, tôm, giày dép, dệt may... và các trường hợp bị kiện của Việt Nam đều có chung thời điểm và sản phẩm với các nước bị kiện khác như Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ. Trong các vụ tranh chấp đã diễn ra, có 23 trường hợp được kết luận là có bán phá giá và đã bị áp thuế chống bán phá giá với mức thuế chống bán phá giá khá cao.

Mặc dù bán phá giá không phải là lĩnh vực duy nhất phát sinh tranh chấp thương mại quốc tế mà Việt Nam phải đối phó song những vụ kiện trong lĩnh vực này là những vụ kiện đã đang và có nguy cơ xảy ra thường xuyên, đặc biệt ngay cả khi Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO.

Biện pháp chống bán phá giá thông thường là đánh thuế bổ sung lên sản phẩm đã bán phá giá, làm cho giá sản phẩm đó được đẩy lên ngang bằng với “giá trị hợp lý” của sản phẩm để làm giảm bớt sự thiệt hại của ngành sản xuất nước nhập khẩu. Tuy nhiên phải có một trình tự hợp lý để thực hiện biện pháp

này. Hiệp định chống bán phá giá của WTO và luật của nhiều quốc gia thành viên đã khẳng định điều này. Nước đi kiện phải chứng minh được hành vi bán phá giá là có thật, gây thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước đi kiện, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi bán phá giá với thiệt hại vật chất.

Việc chứng minh do chính các nhà sản xuất hoặc đại diện của họ là các hiệp hội nộp đơn đến cơ quan có thẩm quyền nước họ đề nghị tiến hành điều tra hành vi bán phá giá. Cơ quan có thẩm quyền (ở Mỹ là DOC và ITC, ở cộng đồng châu Âu là EU) xem xét đơn, nếu thấy có bằng chứng thì sau một thời hạn nhất định (trên mỗi quốc gia quy định về thời hạn) sẽ thực hiện thông báo đến cơ quan có thẩm quyền nước bị kiện, báo cho họ biết các Công ty của họ có hành vi bán phá giá trên nội địa nước đi kiện. Đồng thời cũng báo cho hiệp hội nộp đơn kiện hỏi ý kiến để họ chứng minh rõ thêm và báo cho hội người tiêu dùng trong nước. Sau khi đã có những câu trả lời từ các phía, cơ quan có thẩm quyền nước đi kiện sẽ tiến hành kiểm tra tại chỗ, cả trong nước và nước bị kiện, chủ yếu là kiểm tra các Công ty sản xuất sản phẩm bán phá giá tại các nước bị kiện. Nếu cơ quan có thẩm quyền của nước đi kiện xét thấy biên độ bán phá giá quá nhỏ, dưới 2% giữa giá nội địa nước bị kiện với giá bán tại thị trường nước đi kiện thì sẽ ra quyết định sơ bộ chấm dứt điều tra. Cuộc điều tra có thể tiếp tục nếu phát hiện ra những bằng chứng mới. Nếu xét thấy biên độ bán phá giá lớn hơn 2%, lượng hàng hoá bán phá giá quá lớn thì cơ quan có thẩm quyền tuyên bố áp dụng thức chống bán phá giá. Loại thuế này là thuế đánh bổ sung vào các sản phẩm bị coi là bán phá giá một mặt để sản phẩm đó được đẩy lên ngang bằng với giá trị hợp lý của sản phẩm, mặt khác chấm dứt sự thiệt hại của ngành sản xuất trong nước về sản phẩm đó.

Về căn cứ định mức đánh thuế, mức đánh thuế phải được tính toán kỹ lưỡng sao cho không có thiệt hại lớn cho Công ty nhập khẩu, bù đắp được thiệt hại cho nhà sản xuất trong nước. Đánh thuế chống bán phá giá cần có sự cân nhắc nhu cầu lợi ích của người tiêu dùng, nếu đánh quá cao người tiêu dùng

đang mua với giá thấp, nay phải mua giá cao, họ sẽ phản đối. Ví dụ, trong vụ kịên tôm, Hội người tiêu dùng ở Mỹ kịch liệt phản đối quyết định của Bộ Tài nguyên và Môi trường Mỹ (DOC) và Ủy ban TMHK (ITC) đánh thuế chống bán phá giá tôm vào các Công ty chế biến thuỷ sản Việt Nam. Đây là một điển hình của sự phản bác nhân dân đối với quyết định của Chính phủ. Hiệp hội các nhà phân phối thức ăn biển của Mỹ, một trong những Tập đoàn kinh doanh chế biến thực phẩm từ hải sản cực kỳ lớn trên thế giới đã lên tiếng “Ở Mỹ, tôm là món ăn hạng sang, hiện nay giá cả hợp với túi tiền mọi người, nay tăng thuế, không phải người nào cũng có khả năng mua được”.

Đánh thuế chống bán phá giá đương nhiên là để bảo hộ ngành sản xuất trong nước, bù đắp thiệt hại cho họ nhưng cũng không thể không tính toán đến lợi ích của nhà nhập khẩu, nếu quá cao họ sẽ giảm bớt lượng hàng nhập khẩu và tìm kiếm thị trường mới ở nước khác. Vụ kiện về bán phá giá giầy mũ da của liên minh ngành sản xuất da giầy châu Âu đối với 8 Công ty da giầy Việt Nam đã được cơ quan có thẩm quyền của EU quyết định áp dụng mức thuế từ 4,2% lên tới 16,8%. Vì áp đặt quá cao nên trong số các nước thành viên của EU khi bỏ phiếu đánh thuế chỉ có 3 nước tán thành, 9 nước phản đối, 11 nước bỏ phiếu trắng. Hãng bán lẻ lớn nhất của Anh đặt tại châu Âu cho biết một nửa trong số 27 triệu đôi giầy da của hãng được sản xuất tại Việt Nam, nếu đột ngột đánh thuế, tăng giá, chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn không chỉ cho Việt Nam mà cả cho hãng bán lẻ này [9].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.

Nguyên nhân thất bại của Việt Nam trong các vụ kiện tranh chấp thương mại quốc tế trước đây có nhiều, cả khách quan lẫn chủ quan song nhìn chung là do các vụ tranh chấp này được giải quyết trên cơ sở các Hiệp định thương mại song phương và phần nào bất lợi cho Việt Nam. Điển hình là Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ. Do cơ sở phán quyết là dựa trên luật pháp của các nước mạnh và Việt Nam không có cơ hội được đàm phán nên Việt Nam đã gặp phải nhiều khó khăn trong việc giải quyết đồng thời chịu sự áp đặt bất bình đẳng từ phía nước ngoài. Bên cạnh đó, do các doanh nghiệp Việt Nam bị kiện thường

chưa chủ động và chưa có kinh nghiệm đối phó với các vụ kiện này đồng thời chưa có ý thức cạnh tranh lành mạnh và công bằng thương mại trong nền kinh tế thị trường, ý thức tự vệ và chủ động tham gia kháng kiện của doanh nghiệp trong nước cũng còn thấp nên thua kiện là điều không thể tránh khỏi.

Các nước đang phát triển và cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của WTO - 9

Một nguyên nhân quan trọng khiến Việt Nam gặp thất bại trong các tranh chấp liên quan đến kiện chống bán phá giá do các nước phát triển khởi kiện đó là việc Việt Nam bị coi là có nền kinh tế phi thị trường. Luật chống bán phá giá của Mỹ và EU quy định việc áp dụng phương pháp nền kinh tế thị trường thay thế cho các nền kinh tế phi thị trường để đánh giá việc bán phá giá và do đó mức thuế chống bán phá giá. Phương pháp này không sử dụng chi phí sản xuất và giá trong nước của nền kinh tế phi thị trường để tính giá bán của sản phẩm tại thị trường nước này mà sử dụng giá và chi phí của một nền kinh tế thị trường được chọn lựa làm thay thế. Kết quả là giá bán các sản phẩm tại thị trường trong nước của các nền kinh tế phi thị trường thường bị đánh giá cao hơn nhiều so với giá thực tế và do đó dẫn đến kết luận bán phá giá và thuế chống bán phá giá cao. Những nền kinh tế thị trường được chọn làm thay thế thường có nền kinh tế phát triển cao hơn so với các nước chuyển đổi. Ví dụ, năm 2004, tổng thu nhập dân (GNI) trên đầu người của Việt Nam tính theo ngang bằng sức mua (PPP) là 2.700 USD nhưng của Mêxicô, nước thay thế cho Việt Nam trong vụ kiện bán phá giá xe đạp là 9.640 USD và của Brazil, trong vụ giày dép vào thị trường châu Âu là 7.940 USD [10]. Đa số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay cạnh tranh chủ yếu trên cơ sở chi phí nhân công rẻ. Khi chọn một nước kinh tế phát triển cao hơn, chắc chắn chi phí nhân công của họ sẽ cao hơn nhiều so với các nhà sản xuất của Việt Nam. EU cho rằng Việt Nam là một nền kinh tế phi thị trường nên không có một thị trường lao động tự do và vì thế không coi chi phí nhân công thấp đúng là lợi thế so sánh của Việt Nam. Chính vì vậy khi chọn nước thay thế, EU không hề để ý đến sự khác biệt về chi phí lao động. Điều đáng nói là khi đánh giá về nền kinh tế Việt Nam, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) nhận định Việt Nam đã có thị trường lao động tư do tương đối phát triển. Phi lý

ở một cách khác, DOC đã áp đặt chi phí lao động cho Việt Nam bằng giá trị hồi quy mức lương và thu nhập quốc dân của nhiều nền kinh tế thị trường, trong đó bao gồm cả những nền kinh tế hàng đầu thế giới như Thụy Sỹ, Mỹ, Anh và Canada. Bằng việc áp đặt mức lương 0,63 USD/giờ cho những người nông dân nuôi trồng cá tra và basa và 0,70 USD/giờ cho nuôi trồng tôm trong khi thù lao thực tế của họ hàng tháng chỉ khoảng 500.000 đồng/tháng (32,3 USD) đã đẩy chí phí sản xuất cho hàng xuất khẩu của Việt Nam lên mức cao hơn nhiều so với thực tế. Sự chênh lệch về trình độ kinh tế luôn đi kèm với chênh lệch về trình độ công nghệ sản xuất và khả năng tự túc về nguyên liệu dẫn đến sự cạnh tranh trên những phân đoạn thị trường xuất khẩu có giá trị khác nhau. Trong vụ kiện giày da xuất khẩu của Việt Nam cạnh tranh trên phân đoạn giá trung bình và thấp đã bị so sánh với giày da xuất khẩu của Brazil và giày sản xuất nội địa của EU cạnh tranh trên phân đoạn giá xa xỉ và giá cao. Thậm chí ngay cả khi hai nước có nền kinh tế khá tương đồng xét trên khía cạnh GNI trên đầu người (PPP) thì sự khác biệt về phương thức và điều kiện sản xuất cũng dẫn đến sự chênh lệch về chi phí sản xuất. Bangladesh, nước được chọn thay thế cho Việt Nam trong vụ cá sa, batra và tôm, không có điều kiện tự nhiên thuận lợi như đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam và nghề nuôi trồng và chế biến thủy hải sản phát triển như của Việt Nam nên chi phí sản xuất cao hơn.

Trong vụ kiện tôm, Liên minh Tôm miền Nam Mỹ (SSA) đã đệ đơn kiện Việt Nam và năm nước khác bán phá giá tôm vào Mỹ. SSA cáo buộc là tôm đã được bán “thấp hơn giá hợp lý” và “gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại vật chất” cho lĩnh vực tôm của Mỹ. Tháng Bảy 2004, chính phủ Mỹ đưa ra phán quyết sơ bộ rằng Trung Quốc và Việt Nam đã bán phá giá tôm dưới giá thị trường và đề nghị đánh thuế bù trừ lên đến 112 phần trăm. Hai nước này được tách riêng khỏi bốn nước còn lại để đối xử bởi Mỹ xếp họ là các nền kinh tế phi thị trường. Nghiên cứu của Action Aid ở Việt Nam cho thấy cáo buộc của Mỹ là không công bằng. Báo cáo của tổ chức này kết luận ngành nuôi tôm Việt Nam có sức cạnh tranh cao và lĩnh vực nuôi tôm không được trợ cấp có nghĩa là

không thuộc vào quy chế phi thị trường (độc quyền thương mại của nhà nước hoặc giá cả do Nhà nước ấn định). Tháng Tám 2004, Bộ Thương mại Mỹ thừa nhận một số tôm xuất khẩu của Việt Nam, thực tế không bị Nhà nước kiểm soát, và Bộ này đã hạ thuế chống phá giá cho ít nhất hai doanh nghiệp của Việt Nam.

Việc bị coi là nền kinh tế phi thị trường đồng nghĩa với việc bị đối xử một cách bất bình đẳng. Đây là một trong những khó khăn lớn nhất của Việt Nam, ngay cả khi đã trở thành thành viên của WTO vì thời hạn Việt Nam bị coi là nền kinh tế phi thị trường kéo dài đến 12 năm sau khi gia nhập WTO. Việt Nam chỉ có thể sử dụng được một cách hiệu quả cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO khi không còn bị coi là có nền kinh tế phi thị trường. Chỉ đến khi đó, Việt Nam mới có thể đệ trình những bằng chứng chống lại các buộc tội Việt Nam phá giá và cũng có thể tuyên bố các nước khác bán phá giá tại thị trường Việt Nam. Cho đến khi VN chưa được công nhận là “nền kinh tế thị trường”, các đối tác thương mại lớn như Mỹ và EU sẽ không chấp nhận các dữ liệu từ Việt Nam để xem xét trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Đây là một trong những khía cạnh cần được xem xét cụ thể hơn vì có tác động nghiêm trọng đến việc vận dụng có hiệu quả cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đối với Việt Nam. Chi tiết về vấn đề này sẽ được trình bày trong phần tiếp theo về những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế theo WTO.

3.2 Thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO

Gia nhập WTO, Việt Nam đã và sẽ gặp phải nhiều thách thức to lớn, trong số đó phải kể đến nguy cơ phải đối mặt nhiều hơn với các vụ kiện quốc tế, không chỉ là các vụ kiện chống bán phá giá mà sẽ là nhiều loại vụ kiện khác trong các lĩnh vực liên quan đến thương mại quốc tế như trợ cấp và các biện pháp đối kháng, nhãn mác hàng hóa, an toàn vệ sinh thực phẩm, đầu tư,…. Đặc biệt trong vòng 12-15 năm là thời gian Việt Nam bị coi là có nền kinh tế phi thị trường. Thời hạn này có thể bị các nước đối tác tận dụng để áp đặt biện pháp chống bán phá giá và các biện pháp tự vệ đặc biệt cũng như tự vệ đối với từng

loại hàng hóa của Việt Nam. Hơn lúc nào hết, cần nhận thức rõ ràng và đầy đủ hơn về những thuận lợi và khó khăn mà Việt Nam sẽ gặp phải trong việc tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp theo WTO.

Tham gia WTO nói chung và cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nói riêng, với tư cách là một nước phát triển, Việt Nam sẽ có được những thuận lợi và sẽ gặp phải những khó khăn nhất định như đối với bất kỳ một nước đang phát triển nào theo phân tích trên đây. Tuy nhiên, xét trong điều kiện nhất định của Việt Nam về kinh tế, chính trị, xã hội, địa lý và lịch sử có thể thấy nổi bật lên những thuận lợi và khó khăn sau đây.

Thuận lợi trước tiên phải kể đến là với tư cách là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ có tiếng nói mạnh hơn, có quyền thương lượng và khiếu nại một cách công bằng hơn với các cường quốc thương mại dựa trên những luật lệ chung để giải quyết những tranh chấp phát sinh, đặc biệt là các lĩnh vực mà Việt Nam hay gặp phải các tranh chấp thương mại quốc tế từ trước đến nay như chống bán phá giá, nhãn mác sản phẩm, nhập khẩu,…Mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất định, song về nguyên tắc, Việt Nam sẽ có quyền tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO bình đẳng như bất kỳ quốc gia thành viên nào khác. Theo đó, điều quan trọng là Việt Nam sẽ có thể tiến hành đàm phán song phương hoặc có thể tranh thủ sự ủng hộ của các nước thành viên khác trong quá trình giải quyết tranh chấp để giải quyết được các tranh chấp phát sinh một cách ổn thoả nhất .

Thuận lợi thứ hai phải kể đến đó là việc thay đổi, điều chỉnh hệ thống pháp luật của Việt Nam cho phù hợp với luật chơi quốc tế phổ biến. Việc sửa đổi và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật cho phù hợp nhằm phòng tránh và xử lý hiệu quả các tranh chấp thương mại quốc tế phát sinh vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với Việt Nam. Cơ hội vì đây là dịp để Việt Nam nhìn lại những chính sách, luật lệ của mình, tiến hành sửa đổi những chính sách pháp luật không phù hợp trong một sân chơi chung nhằm tránh những bất đồng có thể làm phát sinh tranh chấp hoặc gây bất lợi trong việc giải quyết các tranh chấp. Thách thức

cũng chính là ở sự sửa đổi này vì cần phải rà soát, kiểm tra, chấp nhận và thực hiện các sửa đổi cho phù hợp. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn từ phía Việt Nam vì sự tốn kém về tài chính và nhu cầu nguồn năng lực có đủ trình độ là rất cao. Theo báo cáo về việc gia nhập WTO của Việt Nam do tổ chức Oxfam thực hiện, Việt Nam đã tiến hành các cuộc cải cách về luật pháp, thiết chế và kinh tế song song với việc tự do hoá thương mại quốc tế một cách có chọn lọc từ đầu những năm 90. Những cải cách đó đã mang lại cho Việt Nam những điều kiện ngày càng trở nên tương thích với các yêu cầu của WTO. Về luật pháp, theo Báo cáo rà soát văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành với các quy định của WTO và cam kết của VN với WTO do Bộ Tư pháp thực hiện năm 2007 , hệ thống pháp luật Việt Nam đã được cải cách và điều chỉnh một cách đáng kể nhằm thực thi có hiệu quả các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO [5]. Tuy nhiên vẫn còn những khó khăn nhất định liên quan đến hệ thống pháp luật trong nước cần phải khắc phục nhằm thực hiện có hiệu quả các cam kết của Việt Nam, các quy định của WTO nói chung và cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nói riêng.

Thuận lợi thứ ba có thể kể đến là Việt Nam, khi đã trở thành thành viên của WTO có thể được hưởng những lợi ích thiết thực mà các nước đang phát triển khác đã đấu tranh để giành được trong các tranh chấp thương mại quốc tế. Ví dụ như trường hợp Braxin kiện Mỹ trợ cấp bông vải và EU trợ cấp cho ngành đường là bán phá giá bất hợp pháp, thắng lợi của Braxin có thể thúc đẩy những thay đổi về chính sách làm lợi cho tất cả thành viên WTO. Để có thể tận dụng được thuận lợi này Việt Nam cũng cần chủ động tích cực hơn nữa trong việc tìm hiểu và cập nhật các thông tin về giải quyết tranh chấp của WTO.

Về khó khăn, khó khăn đối với Việt Nam liên quan đến các tranh chấp thương mại quốc tế có nhiều, trong đó có nguy cơ phải đối mặt với nhiều tranh chấp như đã nêu trên do việc phải gia nhập WTO với các điều kiện WTO cộng. Trong nỗ lực để gia nhập WTO, Việt Nam đã đưa ra những cam kết có thể vượt quá khả năng thực tế, có những cam kết cần phải được thực hiện ngay lập tức sau khi gia nhập WTO mặc dù điều kiện kinh tế xã hội trong nước còn nhiều

Xem tất cả 94 trang.

Ngày đăng: 21/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí