Cụ thể, tín dụng tăng trưởng có nghĩa là lượng cung tiền được bơm vào nền kinh tế tăng lên. Chính sự tăng lên này kéo theo rất nhiều sự thay đổi: khả năng tiếp cận nguồn vốn của các chủ thể cần vốn có xu hướng tăng lên, nguồn cung tiền cho các hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng, cho đầu tư phát triển, máy móc thiết bị, công nghệ, phần mềm, nguồn nhân lực,.. cũng vì thế mà tăng lên. Kết quả tất yếu kéo theo là toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng về mặt quy mô.
Hai: nâng cao đồng thời cả quy mô và chất lượng của tín dụng.
Tăng trưởng tín dụng gia tăng đồng nghĩa với việc quy mô tính dụng toàn nền kinh tế tăng lên, đồng thời, được dẫn trực tiếp vào các hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư của các thành phần trong nền kinh tế. Nhờ vậy, nền kinh tế chọn lọc được những cá thể khỏe mạnh: các công ty có tình hình tài chính tốt, kinh doanh hiệu quả sẽ xem đây là cơ hội, tận dụng thế mạnh trong việc tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ngân hàng lớn, chất lượng để tiếp tục phát triển, mở rộng quy mô,…. Ngược lại, những doanh nghiệp hoạt động yếu kém sẽ gặp khó khăn và buộc phải phụ thuộc vào những doanh nghiệp lớn, bị mua lại, hoặc phải sáp nhập vào các doanh nghiệp lớn. Hệ quả của quá trình tập trung sản xuất này là các doanh nghiệp nhỏ mất đi và dần hình thành những nhóm công ty, những tập đoàn với quy mô ngày càng mở rộng.
Ba: là một công cụ giúp Nhà nước trong việc điều hành và quản lý vĩ mô. Theo đó, thông qua việc điều tiết tăng trưởng tín dụng bằng những biện pháp gián tiếp hoặc hành chính trực tiếp, Nhà nước có thể kiểm soát được độ lớn của lượng cung tiền được bơm vào nền kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng (bằng hình thức tín dụng). Với CSTT mở rộng, tốc độ tăng trưởng kinh tế và khả năng lưu thông hàng hoá được tăng cường và được Nhà nước khuyến khích; và ngược lại khi muốn kiểm soát lạm phát và giá cả, CSTT thắt chặt với tỷ lệ tăng trưởng tín dụng mục tiêu được kiểm soát ở mức thấp sẽ được áp dụng.
2.3 Các nhân tố có ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng
2.3.1 Nhóm các nhân tố đặc trưng nội bộ NH ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân tố tác động đến tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam - 1
- Các nhân tố tác động đến tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam - 2
- Tác Động Của Mức Độ Tự Do Hoá Kinh Tế Đến Tăng Trưởng Tín Dụng
- Mô Tả Chi Tiết Dữ Liệu Và Đặc Điểm Của Dữ Liệu
- Các Thống Kê Mô Tả, Bảng Tần Suất Và Ma Trận Tương Quan Các Biến
Xem toàn bộ 86 trang tài liệu này.
2.3.1.1 Tác động của nguồn vốn huy động đến tăng trưởng tín dụng
Với vai trò trung gian điều tiết vốn của nền kinh tế, NH là nơi tập trung vốn của nền kinh tế và cũng từ đó bơm trở lại vào nền kinh tế ở những nơi cần vốn. Chính vì vậy, để thực hiện được các hoạt động tín dụng (và phi tính dụng), NH buộc phải có nguồn vốn huy động ở trạng thái sẵn sàng để sử dụng với mục đích cấp tín dụng. Như vậy, với vai trò là tiền đề, là nguyên liệu cho hoạt động cấp tín dụng, nguồn vốn huy động tăng sẽ thúc đẩy khả năng tăng của các khoản cấp tín dụng. Lưu ý rằng, nguồn vốn huy động được nhắc đến ở đây là nguồn vốn có thể sử dụng để cấp tín dụng, phân biệt với các nguồn vốn khác mà NHTM có thể huy động được để tài trợ cho hoạt động của mình, như vốn điều lệ, các quỹ, thặng dư vốn cổ phần, vốn của các TCTD khác hoặc các nguồn vốn có tính chất chiếm dụng khác.
Aydin B. (2008) đã thực hiện nghiên cứu trên mẫu những ngân hàng tại các quốc gia Trung và Đông Âu nhằm tìm kiếm các yếu tố góp phần dẫn đến đến hiện tượng bùng nổ tín dụng "credit booms" trong giai đoạn những năm 1988-2005. Và tác giả đã tìm thấy một mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ lệ tiền gửi với sự bùng nổ tín dụng ở các nước này. Bên cạnh đó, tác động của nguồn vốn huy động có xu hướng giảm bớt trong dài hạn nhưng vai trò của nó là cực kỳ quan trọng. Có thể nói, đây chính là là nguồn tài trợ vốn chính nhất cho các hoạt động cấp tín dụng, đặc biệt thể hiện rõ đối với trường hợp các NH nội địa.
2.3.1.2 Tác động của chất lượng tín dụng đến tăng trưởng tín dụng
Nếu như nguồn vốn huy động là đầu vào cho quá trình cấp tín dụng thì để đo lường hiệu quả của hoạt động cấp TDNH, lại được biểu thị bằng chất lượng các khoản cấp tín dụng, hay thường được gọi bằng nợ xấu của các NH. Và giữa hai tiêu chí này có mối tương quan nhất định. Một cách dễ hiểu thì chất lượng các khoản cấp tín dụng thời điểm này sẽ là một trong những cơ sở chính, có ý nghĩa tác động đến quyết định của các NH trong tương lai khi thực hiện cấp tín dụng, nhằm hạn chế tối đa việc thất thoát vốn hoặc chất lượng tín dụng giảm mạnh khi không quản trị được các rủi ro. Cụ thể, nếu hoạt động cấp tín dụng có hiệu quả, mức nợ xấu so với tổng dư nợ thấp thì
NHTM sẽ cân nhắc trong việc tiếp tục mở rộng tín dụng (và ngược lại), từ đó khiến cho tỷ lệ cấp tín dụng gia tăng. Và ngược lại, việc tăng trưởng tín dụng sẽ trở nên thận trọng hơn, thậm chí hạn chế nếu tỷ lệ nợ xấu ở mức cao.
Nghiên cứu của Tracy M. (2011) thực hiện tại Jamaica, Trinidad & Tobago đã chứng minh một tác động ngược chiều có ý nghĩa của chất lượng các khoản nợ đối với tốc độ tăng trưởng tín dụng. Hướng đến mục tiêu giảm thiểu tối đa rủi ro và từng bước nâng cao/ cải thiện hiệu quả của hoạt động kinh doanh, những NH có tỷ lệ nợ xấu trong quá khứ cao buộc phải xem xét lại về các kế hoạch cấp tín dụng của mình trong tương lai theo hướng hạn chế. Tuy nhiên, theo tác giả, mức độ tác động của nhân tố này đến tăng trưởng tín dụng là có một độ trễ thời gian nhất định.
2.3.1.3 Tác động của VCSH đến tăng trưởng tín dụng
Được đánh giá như là nguồn vốn có giá trị lớn nhưng lại không thể sử dụng cho hoạt động cấp tín dụng, tuy nhiên, vai trò của VCSH trong hoạt động cấp tín dụng của hệ thống NH là tương đối quan trọng. Trên thực tế, vai trò này thể hiện rất rõ qua các quy định của NHNN về tỷ lệ an toàn, mà cụ thể là hệ số CAR. Theo đó, nếu CAR của một NH nào có thấp hơn mức quy định của NHNN trong từng thời kỳ (thường trong khoảng 8-9%) thì NHTM đó bị xếp vào diện "không an toàn" và phải thực hiện một số biện pháp để cải thiện tỷ lệ này. Một trong những biện pháp đó là cắt giảm tín dụng thông qua các giải pháp thu hồi nợ hoặc hạn chế tăng trưởng tín dụng trong tương lai. Mà một trong những cấu thành quan trọng của tỷ số này, đó chính là VCSH. Đến đây có thể thấy, mặc dù không được xem như một nguồn vốn có thể sử dụng để cấp tín dụng, nhưng VCSH lại phát huy vai trò "tấm đệm" thanh khoản, giúp các NHTM có thể chống đỡ trong các trường hợp có xảy ra rủi ro và ảnh hưởng đến VCSH. Theo đó, một NH có nguồn VCSH lớn và được bổ sung theo thời gian thường sẽ có khuynh hướng cấp tín dụng nhiều hơn do mức độ an toàn vốn được bảo đảm. Ngược lại, các NH có nguồn vốn không được bổ sung theo thời gian hoặc có khuynh hướng giảm thường sẽ có kế hoạch thu hẹp quy mô tín dụng để duy trì được trạng thái an toàn về vốn.
Nghiên cứu của Carlson M. và các cộng sự (2013) tại các NH Mỹ trong 10 năm từ 2001 đến 2011 cho thấy một tác động cùng chiều của tỷ lệ VCSH đến hoạt động cấp tín dụng. Một nghiên cứu của TS Nguyễn Thị Tuyết Nga (2016) giải thích mối quan hệ này như sau: Khi tỷ lệ vốn tăng thì những rủi ro có nguy cơ cao trong hoạt động cấp tín dụng của NH giảm thấp, vì có lớp đệm vốn an toàn, đến một điểm tới hạn (cực trị) thì NH trở nên hoạt động không hiệu quả buộc phải nới rộng cho vay dẫn đến tín dụng tăng trở lại.
Tuy nhiên, nghiên cứu của Foos D. và các cộng sự (2010) lại tìm thấy một kết quả ngược lại. Theo đó, trong giai đoạn khủng hoảng, các NH có dư nợ cấp tín dụng tăng lại là những NH có tỷ lệ nguồn vốn có khuynh hướng sụt giảm. Lý do được lý giải ở đây là trong khủng hoảng, các NH đang duy trì mức tăng trưởng tín dụng cao đã thật sự phải hứng chịu những tác động tiêu cực đến từ nợ xấu và thực tế đã bị thâm vào vốn.
2.3.1.4 Tác động của thanh khoản đến tăng trưởng tín dụng
Cũng liên quan đến khái niệm thanh khoản, nhưng dưới một góc độ khác hơn mối quan hệ của VCSH và tín dụng, tỷ lệ các TSTK thể hiện hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn, cũng như mức độ dư thừa/ thiếu hụt của các TSTK (tiền, chứng khoán thanh khoản) ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng như thế nào. Thật vậy, một NH có tỷ lệ TSTK cao đa phần là một NH có nguồn vốn nhàn rỗi nhiều và chưa được sử dụng hiệu quả. Khi đó, cùng với áp lực tối đa hoá lợi nhuận thông qua việc tận dụng các kênh đầu tư sinh lời, các nhà QTNH thường lựa chọn tăng trưởng tín dụng như là một giải pháp sử dụng vốn nhàn rỗi phổ biến nhất.
Laidroo L. (2015) đã tìm thấy mối quan hệ giữa tỷ lệ thanh khoản với tốc độ tăng trưởng tín dụng tại các nước Trung và Đông Âu trong giai đoạn 2004-2012. Và đó là một quan hệ cùng chiều có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, nghiên cứu trong giai đoạn 2011, Nguyễn Thuỳ Dương (2011) cũng đã tìm thấy một bằng chứng thực nghiệm rằng dòng chảy tín dụng từ các NHTM tăng xuất phát từ nguyên nhân dư thừa thanh khoản.
2.3.1.5 Tác động của quy mô tài sản đến tăng trưởng tín dụng
Quy mô tài sản của NHTM là khoản mục có giá trị lớn trong tổng danh mục tài sản của NHTM. Cụ thể, khoản mục này chính là độ lớn các khoản tín dụng mà NH đang bơm vào nền kinh tế. Đây cũng là khoản mục tài sản có sinh lời quan trọng nhất. Như vậy, tăng trưởng tín dụng càng cao thì giá trị tổng tài sản của NHTM cũng tăng, hay nói khác đi là có mối quan hệ cùng chiều. Ngược lại, đến phiên mình, quy mô tài sản cũng tạo điều kiện và động lực cho các nhà QTNH có thể tiếp tục mở rộng tăng trưởng tín dụng trên cơ sở kỳ vọng về hệ thống NH sẽ có những bước tiến dài, tăng trưởng và phát triển nhanh chóng về quy mô trong tương lai. Ở góc độ tài trợ vốn, sự tăng lên trong tổng tài sản cũng đem đến một áp lực đối với các nhà quản trị tài chính phải tiếp tục nâng cao hiệu quả sinh lời của NH nhằm bù đắp cho chi phí vốn để tài trợ cho sự tăng trưởng về quy mô đó. Và một trong những chọn lựa của các NHTM là tăng tài sản có sinh lời, mà cụ thể là mở rộng tín dụng dưới nhiều hình thức.
Nghiên cứu của Aydin B. (2008) cũng đã chứng minh được sự tồn tại của một loại áp lực tăng trưởng đến hành vi của các NHTM trong giai đoạn bùng nổ. Khi mà quy mô hoạt động ngày một tăng cao, các NH sẽ xuất hiện khuynh hướng cố gắng sử dụng vốn vào những mục tiêu sinh lời cao nhằm duy trì và tiếp tục pha tăng trưởng đó. Tín dụng nhờ vậy mà gia tăng và trở thành hiện tượng bùng nổ tại các nước Trung và Đông Âu trong giai đoạn này.
2.3.1.6 Tác động của loại hình ngân hàng đến tăng trưởng tín dụng
Nguồn gốc sở hữu của các NH cũng có những tác động đáng kể đến hành vi của các NHTM trong việc quyết định chọn lựa phương án tăng trưởng hay phương án không/hạn chế tăng trưởng trong hoạt động cấp tín dụng của mình. Trong bối cảnh chung nền kinh tế Việt Nam, các TCTD có yếu tố nước ngoài và các ngân hàng tư nhân đang có xu hướng ưu tiên hơn trong việc tăng cường đấy mạnh phát triển các sản phẩm, dịch vụ phi tín dụng, hướng đến cung cấp các dịch vụ chăm sóc, trải nghiệm khách hàng hơn là cho vay thu lãi. Thực tế cho thấy rằng, các tổ chức này có phần
trăm lợi nhuận đến từ dịch vụ lớn hơn nhiều lần so với tỷ trọng lợi nhuận đến từ hoạt động cấp tín dụng. Xu hướng hành vi này là tương đối dễ hiểu khi mà các TCTD nước ngoài có nhiều thế mạnh công nghệ và dịch vụ gấp nhiều lần so với các NH trong nước. Ngoài ra, có sự chuyển dịch rất lớn trong định hướng phát triển của các NH, mà cụ thể là định hướng ngân hàng bán lẻ của đa số các NH nước ngoài tại Việt Nam, bao gồm cả một số ngân hàng tư nhân mới nổi cũng khiến cho họ ưa thích cung ứng dịch vụ phi tín dụng nhiều hơn là cấp tín dụng.
Ở một góc độ khác, giữa các NHTM khác nhau về đặc điểm sở hữu (có vốn Nhà nước và không có vốn Nhà nước), tăng trưởng tín dụng cũng có nhiều khác biệt. Theo đó, các NHTM có vốn Nhà nước thường có lợi thế về nguồn vốn, có nhiều cơ hội hợp tác với các khách hàng cần vốn lớn, chủ yếu là các chương trình kinh tế trọng điểm, các tập đoàn kinh tế Nhà nước và các nhóm công ty có liên quan. Trên cơ sở nguồn vốn dồi dào và những mối quan hệ đó, các NHTM có sở hữu Nhà nước thường có khả năng tăng trưởng tín dụng cao hơn các NH ngoài quốc doanh.
Các nghiên cứu của Aydin B. (2008) và Laidroo L. (2015) tại các nước châu Âu cũng đã chứng minh tính hiện hữu của sự bất tương đồng này. Trong khi đó, nghiên cứu của Nguyễn Thuỳ Dương (2011) tại Việt Nam lại không tìm thấy sự khác biệt trong tăng trưởng tín dụng của hai nhóm NHTM nước ngoài và trong nước.
2.3.2 Nhóm các nhân tố vĩ mô ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng
2.3.2.1 Tác động của lãi suất cơ bản đến tăng trưởng tín dụng
Lãi suất cho vay chính là cơ sở để xác định giá sử dụng vốn tín dụng. Các NHTM xây dựng mức lãi suất này dựa trên rất nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có tính đến mức LSCB được NHNN công bố (có thể thay đổi qua từng giai đoạn khác nhau). Như vậy, đóng vai trò là giá cả của việc sử dụng nguồn vốn TDNH, khi LSCB được công bố tăng sẽ dẫn đến lãi suất cho vay cũng vì thế tăng cao theo, kéo theo lượng cầu tín dụng từ thị trường cũng sẽ giảm tương ứng, những chủ thể cần vốn sẽ tìm đến những nguồn cung ứng vốn khác có giá cạnh tranh hơn (huy động từ VCSH, hoặc phát hành chứng khoán nợ dưới hình thức trái phiếu doanh nghiệp). Do đó, thật
dễ hình dung một mối quan hệ ngược chiều giữa mức LSCB và tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NHTM.
Thật vậy, theo nghiên cứu của Pouw L. và Kakes J. (2013), việc áp dụng mô hình thống kê chi phí Statistical Cost Accounting đã chứng minh khoản mục cấp tín dụng trên báo cáo tài chính của các NH nội địa thuộc 28 nước trong giai đoạn 1980- 2009 có tương quan ngược chiều với LSCB. Tuy nhiên, mối tương quan này chỉ có ý nghĩa trong ngắn hạn, vì khi nghiên cứu với lãi suất dài hạn thì mối quan hệ này trở nên yếu hẳn đi. Hiện tượng này cũng có thể được giải thích thông qua các nghiên cứu về hành vi của người đi vay trên thị trường. Rằng trong ngắn hạn, người thiếu hụt vốn có thể có phản ứng mạnh với việc giá cung tín dụng tăng và sẽ chuyển hướng sang tài trợ bằng những nguồn vốn khác, tức cầu tín dụng co giãn nhiều. Tuy nhiên, do lợi thế và vai trò đặc biệt quan trọng của TDNH cả về quy mô lẫn tính linh hoạt, các chủ thể thiếu vốn trong dài hạn vẫn quyết định chọn TDNH làm nguồn cấp vốn chính bất kể giá của tín dụng, đây là hiện tượng cầu ít co giãn hoặc không co giãn trong dài hạn.
2.3.2.2 Tác động của tăng trưởng kinh tế đến tăng trưởng tín dụng
Mối quan hệ tương quan giữa hai yếu tố: tiêu dùng và thu nhập, đã được lý thuyết kinh tế vĩ mô chứng minh là đúng trong hầu hết mọi trường hợp. Mối quan hệ này thể hiện một sự tác động cùng chiều của thu nhập hiện tại, thay đổi nếu có của thu nhập cũng như kỳ vọng của xã hội về thu nhập đến mức chi tiêu hiện tại của toàn xã hội. Thu nhập của toàn xã hội lại phụ thuộc vào mức độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Trong khi đó, để đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu tăng lên trong hiện tại, xã hội sẽ có khuynh hướng tìm đến những nguồn tài trợ vốn cho tiêu dùng, như TDNH chẳng hạn. Như vậy, dưới góc độ chi tiêu cá nhân, cả hai yếu tố gồm: tăng trưởng kinh tế và kỳ vọng về tăng trưởng kinh tế sẽ tác động tới tăng trưởng tín dụng ngân hàng theo hướng tích cực; TDNH trong trường hợp này được hiểu là tín dụng tiêu dùng.
Ở góc độ doanh nghiệp, nhu cầu chi tiêu của doanh nghiệp phần lớn sẽ là chi tiêu cho đầu tư. Mức chi tiêu này sẽ được hoạch định trên cơ sở nhiều yếu tố nhưng chủ yếu nhất vẫn là cơ hội kinh doanh cũng như kỳ vọng/dự đoán về mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế trong tương lai. Nền kinh tế có triển vọng tăng trưởng càng nhiều thì cơ hội kinh doanh càng nhiều và cũng đáng giá để đầu tư hơn. Vì lẽ đó, khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh và liên tục (mức độ cao) thì doanh nghiệp cũng sẽ có nhu cầu mở rộng quy mô, nhu cầu đầu tư phát triển cao hơn; và thông thường, doanh nghiệp thường tìm đến nguồn vốn TDNH như là một nguồn cung vốn chất lượng, dễ dàng tiếp cận, chi phí thấp.
Như vậy, cho dù là ở góc độ tiêu dùng cá nhân hay ở góc độ chi tiêu của doanh nghiệp, thì tăng trưởng tín dụng ngân hàng chịu tác động cùng chiều tích cực của mức độ phát triển của nền kinh tế. Nghiên cứu của Aydin B. (2008) cũng đã đưa ra kết luận rằng có nhiều nguyên nhân khiến bùng nổ tín dụng ở các nước khu vực Trung và Đông Âu trong những năm đầu của thế kỷ XXI, trong đó, sự tăng trưởng trong tổng sản phẩm quốc dân (GDP) thực (ở mức 3-5%) cũng là một nguyên nhân. Tác động này, như đã nói, là một tác động cùng chiều.
2.3.2.3 Tác động của lạm phát đến tăng trưởng tín dụng
Lạm phát tác động theo cách của nó vào hành vi của các chủ thể cung – cầu tín dụng. Cụ thể, lạm phát tác động gián tiếp vào các yếu tố này và tạo ra tác động tiếp theo lên độ lớn và tốc độ tăng trưởng của TDNH. Lạm phát gia tăng khiến đồng tiền mất giá, từ đó tác động một cách trực tiếp đến thu nhập của tất cả các thành phần trong nền kinh tế, tiết kiệm của họ từ đó mà cũng suy giảm. Hệ quả của việc tiết kiệm suy giảm là nguồn cung vốn vào hệ thống ngân hàng dưới hình thức tiền gửi cũng sẽ giảm, kết quả là tín dụng sẽ bị ảnh hưởng do nguồn cung vốn bị giảm. Chứng minh cho lập luận này, Singh A. và Sharma A. K. (2016) đã đề cập trong nghiên cứu của mình rằng lạm phát sẽ có một tác động ngược chiều đối với khả năng mở rộng quy mô cấp tín dụng của NHTM thông qua việc lạm phát sẽ tác động tiêu cực đến thanh khoản cũng như nguồn vốn huy động chảy vào NH.