Tác Động Của Mức Độ Tự Do Hoá Kinh Tế Đến Tăng Trưởng Tín Dụng


Ở góc độ vĩ mô, lạm phát tăng và kéo dài sẽ kéo theo một động thái thường gặp của NHNN, đó là kiểm soát lạm phát bằng CSTT thắt chặt. Tinh thần của chính sách này là hạn chế cung tiền ra nền kinh tế bằng nhiều hình thức, gián tiếp thông qua nghiệp vụ thị trường mở hoặc trực tiếp thông qua các biện pháp hành chính như tăng LSCB, tăng lãi suất tái cấp vốn, hoặc thậm chí quy định mức trần tăng trưởng tín dụng của từng NHTM. Nhưng dù với biện pháp nào thì rõ ràng khi yếu tố lạm phát tăng sẽ tất yếu dẫn đến một sự sụt giảm trong khả năng tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng.

2.3.2.4 Tác động của mức độ tự do hoá kinh tế đến tăng trưởng tín dụng


Tự do hoá kinh tế là một thuật ngữ trong kinh tế học để chỉ một môi trường kinh tế mà ở đó mọi hoạt động sản xuất, buôn bán và tiêu thụ hàng hóa hay dịch vụ được thực hiện một cách tự nguyện và liên tục mà không bị ép buộc hay giới hạn bởi bất kỳ ai, thậm chí cả chính phủ. Với một bối cảnh hẹp hơn, tự do kinh tế cũng bao hàm tự do tài chính với các dòng cung cầu vốn được luân chuyển liên tục và thông suốt. Hệ quả của tự do hoá tài chính là các dòng cung, cầu vốn tín dụng cũng được tự do vận động theo những quy luật vốn có của nó. Chung quy lại nếu tự do kinh tế càng cao thì tín dụng càng được phát triển một cách thoải mái, từ đó mà cũng được mở rộng và tăng trưởng.

Nghiên cứu của Lane P. R. và McQuade P. (2014) về tác động của các dòng vốn hải ngoại đến tăng trưởng tín dụng nội địa đã khẳng định lập luận trên. Nghiên cứu cũng đã mang lại một khám phá chi tiết về mối quan hệ này. Theo đó, mức độ tự do hoá tài chính thông qua sự tự do chuyển dịch của các dòng vốn quốc tế sẽ có tác động trực tiếp tăng trưởng tín dụng nội địa thông qua hoạt động tài trợ/ tài trợ không hoàn lại mang yếu tố quốc tế cho các NH nội địa. Ngoài ra, các dòng vốn quốc tế này còn có tác động gián tiếp đến tín dụng nội địa thông qua việc tương tác với các biến số kinh tế vĩ mô cũng như khả năng hấp thụ của thị trường nội địa. Chính vì vậy, tác động của tự do hoá kinh tế đến tăng trưởng tín dụng đã được xác nhận. Tuy nhiên, đó


là tác động ngược chiều hay cùng chiều còn tuỳ thuộc vào lượng, chất của dòng vốn quốc tế cũng như khả năng hấp thụ của thị trường nội địa.

2.4 Khảo lược một số nghiên cứu trong và ngoài nước


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 86 trang tài liệu này.

2.4.1 Khảo lược các nghiên cứu quốc tế


Các nhân tố tác động đến tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam - 4

Tác giả khảo lược một số nghiên cứu quốc tế có liên quan:


Kashif Imran và Mohammed Nishat (2013) thực hiện nghiên cứu với mục tiêu xác định những yếu tố tác động đến TDNH qua nghiên cứu dữ liệu time-series (chuỗi thời gian) với thời gian nghiên cứu từ năm 1971 đến 2010 tại Pakistan. Với cách tiếp cận từ phía cung và sử dụng phương pháp ARDL (Autoregressive Distributed Lag), nghiên cứu đã đo lường được xu hướng cũng như mức độ tác động của các biến. Theo đó, nhân tố vay nợ quốc tế, nguồn tiền huy động trong nước, tăng trưởng kinh tế và tình hình thị trường tiền tệ có mối liên kết đáng kể với TDNH trong khu vực tư nhân tại Pakistan, đặc biệt là trong dài hạn. Bên cạnh đó, lạm phát và tỉ giá hối đoái là 2 nhân tố được kết luận là không có tương quan ý nghĩa đến tín dụng tư nhân. Hơn nữa trong ngắn hạn, tiền gửi trong nước sẽ không tác động đến tín dụng tư nhân. Cuối cùng, nghiên cứu đúc kết cho ta thấy rằng có hai yếu tố tác động lớn đến quyết định cho vay của các NH gồm: năng lực/tiềm lực tài chính và yếu tố thanh khoản của các NH. Nói khác đi, NH sẽ cho vay dựa trên khả năng tài chính và khả năng thanh khoản của chính nó. Ngoài ra, mối quan hệ trong dài hạn của các biến được xem là ổn định và bất kỳ sự mất cân bằng nào được hình thành trong ngắn hạn chỉ là tạm thời và được điều chỉnh trong một khoảng thời gian với tốc độ cao khoảng 53.5% mỗi năm. Với cách tiếp cận của phương pháp ARDL, một phương pháp kết hợp giữa mô hình VAR (tự hồi qui vector) và mô hình hồi qui bình phương nhỏ nhất (OLS) cho phép nghiên cứu các tương quan ý nghĩa giữa các biến trong mô hình nghiên cứu, với dữ liệu chuỗi thời gian một cách dễ dàng, linh hoạt dù các biến có hiện tượng nội sinh, độ trễ các biến khác nhau,… kết quả mô hình cho ta thấy rất rõ các tương quan trong ngắn hạn và cả các tương quan trong dài hạn giữa các biến trong mô hình. Tuy nhiên,


nghiên cứu này không chỉ ra sự khác biệt về hành vi cấp tín dụng của các NH trong thời gian cải cách phi tài chính (1971-1989) và tài chính (sau 1990) ở Pakistan.

IMF (2011) công bố bài báo nghiên cứu về các nhân tố tác động đến TDNH trong các nền kinh tế thị trường mới nổi (Emerging Market Economics), nghiên cứu đã đưa ra nhiều kết luận rộng hơn so với những nghiên cứu trước đây. Thông qua việc phân tích mô hình hồi qui với dữ liệu chuỗi thời gian và dữ liệu chéo của 38 quốc gia kéo dài từ quí I năm 2001 đến quí II năm 2010. Kết quả cho thấy các loại quỹ (không giới hạn về tính chất sở hữu trong hay ngoài nước) đều có ảnh hưởng tích cực đến tăng trường tín dụng. Với một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ sẽ làm tín dụng tăng trưởng hơn, đi cùng với lạm phát cao. Trong khi tăng trưởng tín dụng danh nghĩa sẽ gây bất lợi cho tăng trưởng tín dụng thật. Bài báo cũng đưa ra kết luận về việc lỏng lẻo trong CSTT dù là trong nước hay thế giới sẽ gây ra việc tăng trưởng tín dụng và khả năng của ngân hàng cũng sẽ là một vấn đề cần được đặc biệt lưu ý trong trường hợp này. Bài báo đã thu thập dữ liệu lớn từ các nền kinh tế thị trường mới nổi trong khoảng thời gian gần 10 năm, bao gồm cả thời gian trước và sau khủng hoảng kinh tế thế giới theo cách tiếp cận từ phía cung, từ đó có thể cho ta thấy một kết quả mang tính toàn diện và đáng tin cậy.

Burcu Aydyn (2008) đã nghiên cứu cụ thể tác động của nhân tố cấu trúc ngân hàng đến tăng trưởng tín dụng tại các nước Trung và Đông Châu Âu. Nghiên cứu đưa ra hai hướng phân tích tăng trưởng tín dụng tương ứng với hai phần nghiên cứu khác nhau: Một là, vai trò của ngân hàng sở hữu nước ngoài đến tín dụng của các NHTM tại các nước Trung và Đông Châu Âu; Hai là, mức độ hành vi của ngân hàng sở hữu nước ngoài ở các quốc gia này phụ thuộc ra sao vào phát triển của ngân hàng mẹ. Bằng phương pháp nghiên cứu Tác động cố định (Fixed Effect) trên dữ liệu time- series trong giai đoạn từ năm 1988 đến 2005, tác giả đã tìm thấy nhiều kết quả cho mỗi khía cạnh nghiên cứu. Đối với phần thứ nhất, kết quả hồi qui tuyến tính trên số liệu 72 ngân hàng với mô hình trong đó tăng trưởng tín dụng phụ thuộc vào các nhân tố vĩ mô cho thấy các ngân hàng sở hữu nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn nhiều lần so với các ngân hàng trong nước. Tuy nhiên, khi phân chia ngân


hàng trong nước thành hai dạng là ngân hàng tư nhân và sở hữu nhà nước thì tác giả thấy rằng kết luận này không còn đúng nữa. Khi đó, ngân hàng tư nhân trong nước lại có tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn các NH có sở hữu nước ngoài. Kết hợp với dữ liệu của các NH sở hữu nước ngoài ở phần thứ nhất và dữ liệu các ngân hàng mẹ của những ngân hàng này, tác giả cũng thực hiện phân tích hồi quy tuyến tính trên dữ liệu không cân bằng gồm 59 quan sát không gian (các ngân hàng), trong đó có 18 NH mẹ và 41 NH con tại các quốc gia Trung và Đông Châu Âu trong 16 năm từ năm 1990 đến năm 2005. Theo đó, tác giả thấy rằng không có sự khác biệt nào đáng kể giữa các NH mẹ và NH con trong sự tác động đến tăng trưởng tín dụng. Khi xét theo đặc trưng của từng ngân hàng mẹ thì qui mô và lợi nhuận có tác động cùng chiều nhưng sự gia tăng cấu trúc chi phí sẽ tác động ngược chiều đến lượng tín dụng mà ngân hàng con tại các quốc gia này cung cấp. Bằng cách tập trung nghiên cứu vào nhân tố là cấu trúc ngân hàng, nghiên cứu đã tìm ra được nhiều kết quả mang ý nghĩa thực tiễn tại các nước Trung và Đông Châu Âu. Nghiên cứu được chia làm hai phần tương ứng với hai khía cạnh chính mà tác giả quan tâm, mỗi phần lại được thực hiện bằng phân tích mô hình hồi qui tuyến tính với dữ liệu thời gian đủ lớn qua phương pháp Fixed Effect – một thuật toán có thể khắc phục những hạn chế từ dữ liệu chuỗi thời gian, từ đó giúp kết luận đưa ra từ nghiên cứu thêm đáng tin cậy.

Laivi Laidroo (2015) thực hiện nghiên cứu của mình hướng đến tìm hiểu có hay không sự tương quan giữa hình thức sở hữu ngân hàng và TDNH. Nghiên cứu này tập trung phân tích sự khác biệt về tăng trưởng tín dụng giữa ngân hàng sở hữu nước ngoài và ngân hàng tư nhân trong nước cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng tại các NH này. Số liệu của nghiên cứu này được tập hợp từ số liệu của các NHTM ở 11 quốc gia Trung và Đông Châu Âu từ năm 2004 đến năm 2012. Mô hình hồi quy tuyến tính gồm 9 biến với biến phụ thuộc là tăng trưởng tín dụng, biến độc lập gồm vốn, qui mô, tỉ lệ thanh khoản, nguồn tài trợ từ bên ngoài, tỉ lệ dự phòng nợ xấu và các biến kiểm soát như chuẩn mực kế toán, cấu trúc sở hữu và khủng hoảng kinh tế. Kết quả cho ta thấy rằng, không có sự khác biệt đáng kể trong tỉ lệ tăng trưởng tín dụng giữa các NH được nghiên cứu với những hình thức sở hữu


khác nhau, cũng như trong hay sau thời kì khủng hoảng kinh tế. Theo đó, chỉ có nhân tố tỉ lệ thanh khoản tác động cùng chiều đến tăng trưởng tín dụng trong khi qui mô, rủi ro tín dụng và nguồn tài trợ từ bên ngoài ngân hàng có tác động ngược chiều. Nghiên cứu sử dụng số liệu thực nghiệm từ các ngân hàng tại các nước Trung và Đông Châu Âu trong khoảng thời gian trước năm 2013 khi các nước này vẫn chưa gia nhập Liên minh Châu Âu EU. Kết hợp vào đó, nghiên cứu chỉ tập trung vào các NHTM và loại bỏ các hình thức ngân hàng khác có các hoạt động đặc thù, từ đó tạo tính đồng đều cho dữ liệu dẫn đến kết quả có ý nghĩa. Việc phân chia các ngân hàng trong dữ liệu thành 3 nhóm gồm nhóm các ngân hàng nước ngoài, nhóm các ngân hàng tư nhân trong nước và nhóm các ngân hàng sở hữu nhà nước giúp phân biệt rõ sự khác biệt trong tín dụng và sự khác biệt về các nhân tố có ảnh hưởng ý nghĩa đến tín dụng của các loại hình NH này.

Mark Tracey (2011) xem xét đến xu hướng và mức độ tác động của nợ xấu đến TDNH. Ngân hàng sẽ có những quyết định cấp tín dụng khác nhau tùy thuộc vào tỉ lệ nợ xấu trên hay dưới ngưỡng, với tỉ lệ nợ xấu vượt ngưỡng có thể ảnh hưởng xấu đến việc cho vay. Nghiên cứu được thực hiện riêng biệt cho hai quốc gia thuộc vùng Ca-ri-bê là Jamaica và Trinidad - Tobago thông qua việc thu thập số liệu tài chính nội tại của các NHTM của hai nước này tương ứng từ quí I năm 1996 đến quí II năm 2011 và từ quí III năm 1995 đến quí IV năm 2010. Mô hình hồi qui tuyến tính được ước lượng bởi phương pháp OLS. Biến phụ thuộc là tốc độ tăng trưởng tín dụng được đặt trong mối quan hệ với các biến độc lập gồm tỉ lệ nợ xấu, tiền gửi, thu nhập khác và VCSH, nhóm biến tác động ngược chiều gồm tỉ lệ nợ xấu và thu nhập khác. Tác giả đã rút ra được một kết luận rằng khi chất lượng tín dụng kém (tỉ lệ nợ xấu của các NH cao) sẽ kéo theo mức độ rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng vì thế mà cao theo. Xu hướng này dễ dàng thấy được không chỉ ở các quốc gia này, mà gần như đúng cho phần lớn các quốc gia. Ngoài ra, nghiên cứu còn ước tính được ngưỡng tỉ lệ nợ xấu của từng quốc gia nhằm chỉ ra rằng mỗi quốc gia có mức độ phản ứng với rủi ro khác nhau.


Carlson et al. (2013) hướng nghiên cứu của mình để kiểm tra mối tương quan ý nghĩa giữa tỉ lệ VCSH và TDNH bằng việc so sánh những tỉ lệ VCSH khác nhau ứng với mức tăng trưởng tín dụng khác nhau tại các nhóm NH được phân chia dựa trên khu vực địa lý cũng như qui mô và đặc tính. Trên dữ liệu từ năm 2001 đến năm 2011 bởi phương pháp MSA Fixed Effects, kết quả mô hình hồi qui cho thấy tồn tại mối quan hệ phi tuyến tính giữa tỉ lệ VCSH và tăng trưởng tín dụng và đặc biệt chặt chẽ khi các NH đang thu hẹp tín dụng. Hơn nữa, khi phân tích sâu tăng trưởng tín dụng theo từng loại, tăng trưởng tín dụng cho khu vực bất động sản thương mại và công nghiệp thương mại sẽ nhạy cảm với tỉ lệ VCSH hơn so với các loại tín dụng khác. Với cách tiếp cận theo từng nhóm ngân hàng được phân chia theo các tiêu chí, nghiên cứu đã có phép so sánh hiệu quả khi cách này giúp kiểm soát nhu cầu vay tại địa phương cũng như những yếu tố môi trường khác. Điểm đặc biệt của nghiên cứu là không những phân tích tác động của tỉ lệ VCSH đến tăng trưởng tín dụng nói chung mà còn nói riêng cho từng loại tín dụng, từ đó cho ta kết quả chi tiết hơn về độ nhạy cảm của từng loại tín dụng với tỉ lệ VCSH.

2.4.2 Khảo lược các nghiên cứu trong nước


Tác giả khảo lược một số nghiên cứu trong nước có liên quan:


Nguyễn Thuỳ Dương và Trần Hải Yến (2011) đã tiến hành khái quát bức tranh về câu chuyện cấp tín dụng của toàn ngành NH trong giai đoạn 2001-2010 và tập trung chủ yếu vào mô hình định lượng với các yếu tố cơ bản tác động đến tăng trưởng tín dụng ngân hàng trong năm 2011 mà nghiên cứu nhắc đến gồm: nguồn gốc sở hữu, quy mô huy động vốn, thanh khoản, ROA, ROE và hiệu số lãi suất bình quân đầu ra

- đầu vào của các NHTM. Bằng việc thực hiện mô hình hồi quy bội với mẫu là 84 NHTM tại các thời điểm cuối 3 quý đầu tiên trong năm 2011, tác giả đã đưa ra một số kết luận quan trọng: khi nguồn vốn huy động và thanh khoản tăng, các NHTM sẽ có khuynh hướng cho vay nhiều hơn; ngược lại chênh lệch lãi suất bình quân tăng thì lại làm giảm tín dụng; trong khi đó, lại không tìm thấy mối tương quan ý nghĩa nào giữa yếu tố loại hình sở hữu ngân hàng và tăng trưởng tín dụng trong năm 2011.


Tôn Nữ Trang Đài (2015) lại nghiên cứu về các nhân tố tác động đến tăng trưởng tín dụng tại 24 NHTM cổ phần ở Việt Nam trong giai đoạn 2006-2014. Tác giả đã thực hiện mô hình hồi quy bội gộp giản đơn trên phần mềm Eview 8.0 để nghiên cứu tác động của tiền gửi, ROE (tỷ lệ lợi nhuận trên VCSH), quy mô tổng tài sản và yếu tố thanh khoản lên tăng trưởng tín dụng của các NHTM. Kết quả cho thấy cả ba yếu tố tăng trưởng nguồn vốn huy động, thanh khoản và ROE đều có tác động cùng chiều với tăng trưởng tín dụng; trong khi đó biến quy mô tài sản lại không có bất kỳ tương quan ý nghĩa nào.

Phan Quỳnh Linh (2017) thực hiện nghiên cứu của mình để tìm hiểu về các nhân tố tác động đến tăng trưởng tín dụng của các NHTM. Theo đó, bằng mô hình nghiên cứu truyền thống như mô hình hồi quy bội, mô hình FEM và REM, tác giả đã nghiên cứu hành vi đối với tín dụng của 20 NHTM cổ phần ở Việt Nam trong giai đoạn 2007-2016 với những biến số cơ bản như sau: quy mô tài sản, tỷ suất sinh lời, tỷ lệ an toàn vốn, thanh khoản, tăng trưởng GDP, lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp và chỉ số VN-Index. Kết quả nghiên cứu cuối cùng cho thấy có 3 yếu tố gồm: tỷ lệ an toàn vốn, quy mô tài sản và ROA là có tác động đến tăng trưởng tín dụng; trong khi đó, cũng có 3 yếu tố vĩ mô có tác động đến tăng trưởng tín dụng là GDP, lạm phát và chỉ số VN-Index.

2.4.3 Lỗ hổng của các nghiên cứu và hướng nghiên cứu chính của tác giả


Đối với các nghiên cứu quốc tế, tăng trưởng tín dụng đã là một đề tài phổ biến được nghiên cứu với rất nhiều mẫu dữ liệu lớn, phong phú, tại nhiều quốc gia/ nền kinh tế khác nhau. Bên cạnh đó, các mô hình được đề cập cũng đã được xây dựng với rất nhiều biến độc lập đa dạng từ những biến thuộc nhóm các yếu tố nội tại bên trong của mỗi NH (các yếu tố tài chính, yếu tố quản trị), đến những biến thuộc nhóm các nhân tố vĩ mô, các biến được sử dụng bao gồm cả biến định lượng và biến định tính (biến giả). Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia/ vùng lãnh thổ lại có những quy định/ quy chuẩn không hề giống nhau cả về mặt pháp lý lẫn chính sách khiến cho việc đo lường các


biến cũng sẽ rất khác nhau, đặc biệt là biến chính của mô hình: biến tăng trưởng tín dụng.

Theo đó, các mô hình được thực hiện ở nước ngoài chủ yếu đo lường biến phụ thuộc thông qua tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của biến cho vay, tức là đồng nhất hành vi cấp tín dụng với hình thức cho vay. Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn đúng ở Việt Nam, vì hoạt động cho vay chỉ là một trong rất nhiều những hình thức của hoạt động cấp tín dụng. Sự khác biệt này đặt ra nhu cầu cần phải nghiên cứu tăng trưởng tín dụng trong bối cảnh quy định của pháp luật Việt Nam.

Đối với các nghiên cứu được thực hiện trong nước, mặc dù biến tăng trưởng tín dụng đã được đo lường một cách phù hợp hơn với pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, mẫu dữ liệu còn khá hạn hữu, thậm chí chỉ nghiên cứu trong thời gian 1 năm. Ngoài ra, phương pháp nghiên cứu của một số đề tài cũng còn khá giản đơn, chỉ dừng lại ở việc phân tích dữ liệu bằng mô hình Pooled OLS, FEM hay REM. Trong khi đó, các mô hình này chưa giải quyết được các vấn đề phát sinh từ những khuyết tật cơ bản của panel data.

Vì vậy, tác giả lựa chọn nghiên cứu các nhân tố tác động đến yếu tố tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam với mẫu nghiên cứu bao gồm 28 NHTM cổ phần trong giai đoạn 2010-2017 (tương đương 224 quan sát). Mô hình nghiên cứu bao gồm 10 biến độc lập (trong đó bao gồm hai nhóm biến: nhóm biến nhân tố nội tại và nhóm biến nhân tố vĩ mô) được tác giả kỳ vọng có tác động đáng kể đến tăng trưởng tín dụng.

Về phương pháp, ngoài mô hình FEM và REM được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu khác, trong khuôn khổ luận văn này, tác giả lựa chọn mô hình hồi quy chủ yếu của đề tài là phương pháp Mô-men tổng quát GMM (Hansen L. P.,1982), với mục tiêu giúp khắc phục được những khiếm khuyết cơ bản của mô hình với dữ liệu bảng. Kết quả nghiên cứu từ phương pháp GMM sẽ là kết quả chính của luận văn này, và tác giả sử dụng các ước lượng mô hình có được từ phương pháp GMM để bàn luận chi tiết.

Xem tất cả 86 trang.

Ngày đăng: 09/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí