PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Cùng với biến động xấu của nền kinh tế cả nước trong những năm vừa qua thì ngành Ngân hàng cũng gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là chất lượng tín dụng giảm và nợ xấu tăng cao.
Với vai trò quan trọng trong nền kinh tế, vấn đề quản trị rủi ro tại các Ngân hàng trở lên luôn đóng vai trò quan trọng đặc biệt là trong thời điểm hiện tại. Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều biện pháp nhằm điều chỉnh hoạt động ngành Ngân hàng vốn tồn tại nhiều bất cập.
Vì vậy, việc xem xét và phân tích các nhân tố tác động đến nợ xấu của Ngân hàng là việc làm cần thiết bởi đây là vấn đề rất được quan tâm tại thời điểm này. Nguyên nhân của thực trạng nợ xấu cao như hiện nay là gì, biện pháp giải quyết hiệu quả ?
Xuất phát từ lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NỢ XẤU TẠI MỘT SỐ NGÂN HÀNG VIỆT NAM” làm đề tài
Luận văn Thạc sĩ kinh tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đưa ra cơ sở lý luận về nợ xấu, quản lý nợ xấu. Học tập kinh nghiệm quản lý nợ xấu của một số nước trên thế giới và vận dụng vào thực tế của Việt Nam.
- Phân tích thực trạng nợ xấu tại một số ngân hàng Việt Nam. Đo lường các nhân tố tác động đến nợ xấu tại một số ngân hàng Việt Nam và từ đó đề xuất các giải pháp để hạn chế cũng như xử lý nợ xấu.
3. Đối tượng nghiên cứu
Tình hình nợ xấu và những nhân tố tác động đến nợ xấu tại 8 NHTM đang niêm yết trên sàn chứng khoán: Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam(CTG), Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (VCB), Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (STB), Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), Ngân hàng TMCP XNK Việt Nam (EIB), Ngân hàng
TMCP Quân Đội (MBB) và Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB), Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam(BID).
Đây là những NHTM hàng đầu tại Việt Nam trong thời điểm hiện nay xét về quy mô, nguồn vốn, hiệu quả hoạt động, thương hiệu. Do đó qua xem xét thực trạng 8 NHTM nói trên sẽ thấy được thực trạng của hệ thống ngân hàng Việt Nam tại thời điểm này. Ngoài ra do niêm yết trên sàn chứng khoán nên việc tiếp cận thông tin và lấy số liệu về tình hình hoạt động của các NHTM nói trên cũng thuận lợi hơn các ngân hàng khác.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu khái niệm nợ xấu, các nhân tố tác động đến nợ xấu và kinh nghiệm về quản lý nợ xấu trên thế giới nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Dữ liệu phân tích được lấy từ các nguồn BCTN, BCTC theo năm của các NHTM Việt Nam, website của NHNN, Tổng cục thống kê, …công bố trong giai đoạn từ năm 2009 đến 2013.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp định tính: tác giả dùng phương pháp phân tích hệ thống, thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp.
- Phương pháp định lượng: tác giả tham khảo mô hình hồi quy tuyến tình đo lường các nhân tố tác động đến nợ xấu của Hippolyte Fofack (2005), Irum Saba, Rehana Kouser, Muhammad Azeem (2012). Sau khi xem xét, so sánh các mô hình về tính khả thi và phù hợp khi áp dụng trong điều kiện Việt Nam, tác giả quyết định chọn mô hình hồi quy tuyến tính đa biến. Dữ liệu của mô hình được lấy trong giai đoạn từ năm 2009- 2013 từ các báo cáo tài chính, báo cáo thường niên của 8 ngân hàng đang niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán, số liệu vĩ mô của Tổng cục thống kê.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan các nhân tố tác động đến nợ xấu tại NHTM
Chương 2: Thực trạng nợ xấu tại một số NHTM Việt Nam
Chương 3: Nghiên cứu thực nghiệm các nhân tố tác động đến nợ xấu tại một số NHTM Việt Nam.
Chương 4: Giải pháp nhằm hạn chế nợ xấu tại một số NHTM Việt Nam
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về nợ xấu tại Ngân hàng thương mại:
1.1.1. Khái niệm nợ xấu:
Theo các sách giáo khoa tài chính, các tác giả thường đưa ra những thuật ngữ về nợ xấu như “bad debt”, “non-performing loan”, “doubtful debt” hoặc là các khoản cho vay bắt đầu được đưa vào nợ xấu khi đã quá hạn trả nợ gốc và lãi 90 ngày trở lên (Peter Rose, 2009)
Khái niệm của nhóm chuyên gia tư vấn Advisory Expert Group (AEG)
Nhóm chuyên gia tư vấn AEG của Liên Hợp Quôc cho rằng định nghĩa về nợ
xâu không nên mang tính chất mô tả mà chỉ nên được sử dụng như hướng dẫn cho các ngân hàng. AEG thống nhất định nghĩa như sau: “Một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên dã được nhập gôc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thỏa thuận; hoặc các khoản phải thanh toán dã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”. Nói cách khác, nợ xấu được xác định dựa trên 2 yếu tố: quá hạn trên 90 ngày; khả năng trả nợ bị nghi ngờ.
Theo Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng (BCBS): không đưa ra định nghĩa cụ thể về nợ xấu. Tuy nhiên, trong các hướng dẫn về các thông lệ chung tại nhiều quốc gia về quản lý rủi ro tín dụng, BCBS xác định, việc khoản nợ bị coi là không có khả năng hoàn trả khi một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau xảy ra: (i) ngân hàng thấy người vay không có khả năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng chưa thực hiện hành động gì để gắng thu hồi ví dụ như giải chấp chứng khoán (nếu đang nắm giữ); (ii) người vay đã quá hạn trả nợ quá 90 ngày.
Theo Basel II, các ngân hàng sẽ sử dụng các mô hình dựa trên hệ thống dữ liệu nội bộ để xác định khả năng tổn thất tín dụng. Với mỗi kỳ hạn xác định, tổn thất có thể ước tính được tính toán dựa trên công thức như sau:
EL = PD x EAD x LGD
(Trong đó PD – Probability of Default: xác suất khách hàng không trả được nợ; LGD: Loss Given Default – tỷ trọng tổn thất ước tính; EAD: Exposure at Default – tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ; EI: Expected Loss – tổn thất có thể ước tính)
Trong Hướng dẫn để tính toán các chỉ số lành mạnh tài chính tại các quốc gia (FSIs), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) đưa ra định nghĩa về nợ xấu “một khoản vay được coi là nợ xấu khi quá hạn thanh toán gốc hoặc lãi 90 ngày hoặc hơn; khi các khoản lãi suất đã quá hạn 90 ngày hoặc hơn đã được vốn hóa, cơ cấu lại, hoặc trì hoãn theo thỏa thuận; khi các khoản thanh toán đến hạn dưới 90 ngày nhưng có thể nhận thấy các dấu hiệu rò ràng cho thấy người vay sẽ không thể hoàn trả nợ đầy đủ (ví dụ khi người vay phá sản). Sau khi khoản vay được xếp vào danh mục nợ xấu, nó hoặc bất cứ khoản vay thay thế nào cũng nên được xếp vào danh mục nợ xấu cho tới thời điểm phải xóa nợ hoặc thu hồi được lãi và gốc của khoản vay thay thế” (IMF’s Compilation Guide on Financial Soundness Indicators, 2004).
Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) về ngân hàng thường đề cập các khoản nợ giảm giá trị thay vì sử dụng thuật ngữ nợ xấu. Chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 39 chỉ ra rằng cần có bằng chứng khách quan để xếp một khoản vay có dấu hiệu bị giảm giá trị. IAS 39 chú trọng tới khả năng hoàn trả của khoản vay bất luận thời gian quá hạn tới 90 ngày hoặc chưa quá hạn. Phương pháp để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng thường là phân tích dòng tiền tương lai chiết khấu hoặc xếp hạng khoản vay của khách hàng.
1.1.2. Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu
Đo lường chất lượng tín dụng là một nội dụng quan trọng trong việc phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh và tính an toàn của NHTM. Một khoản vay tốt là khoản vay mà khách hàng thanh toán đủ nợ gốc và lãi cho ngân hàng đúng hạn. Để đánh giá chất lượng tín dụng ta có thể xem xét chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Dư nợ quá hạn
Tổng dư nợ x 100%
Chỉ tiêu nợ xấu cho ta số liệu cụ thể hơn để đo lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng. Chỉ tiêu này luôn nhỏ hơn chỉ tiêu nợ quá hạn và phần nào cho thấy chất lượng tín dụng của các NHTM. Các ngân hàng có chỉ số này thấp đã chứng minh được chất lượng tín dụng cao của mình và ngược lại.
Số dư nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu =
Tổng dư nợ x 100%
Thông thường thì tỷ lệ nợ quá hạn tốt nhất là ở mức ≤ 5%, tỷ lệ nợ xấu ≤ 3%. Tuy nhiên, chỉ tiêu này đôi khi cũng chưa phản ánh hết chất lượng tín dụng của một ngân hàng. Bởi vì bên cạnh những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý do đã thực hiện tốt các khâu trong qui trình tín dụng, còn có những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn thấp thông qua việc cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá hạn theo đúng qui định.
Hệ số RRTD =
Tổng dư nợ cho vay
Tổng tài sản có x 100% (Trần Huy Hoàng, 2011)
Hệ số này cho thấy tỷ trọng khoản mục tín dụng trong tổng tài sản có, tỷ trọng này càng cao thì lợi nhuận càng lớn nhưng cùng với đó là RRTD càng cao, hiệu quả hoạt động quản trị RRTD thấp.
1.1.3 Phân loại nợ và trích lập dự phòng
Phân loại nợ được hiểu là quá trình các ngân hàng xem xét các danh mục cho vay của từng ngân hàng và đưa khoản vay vào các nhóm khác nhau dựa trên rủi ro và điểm tương đồng giữa các khoản vay. Việc thường xuyên xem xét và phân loại nợ giúp các ngân hàng có thể kiểm soát chất lượng danh mục cho vay, có các biện pháp xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình cho vay.
Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự
phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng. Dự phòng rủi ro bao gồm: Dự phòng cụ thể và Dự phòng chung. Dự phòng cụ thể là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại cụ thể các khoản nợ để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra. Dự phòng chung là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể và trong các trường hợp khó khăn về tài chính của các tổ chức tín dụng khi chất lượng các khoản nợ suy giảm.
Việc phân loại và lập dự phòng gây nhiều khó khăn cả về mặt lý thuyết và thực tế, các quôc gia có lựa chọn rất đa dạng cho hệ thống phân loại và lập dự phòng. Mặc dù có những điểm tương đồng, nhưng vẫn chưa có quy định và tiêu chuẩn quốc tế thống nhất. Ủy ban Basel đưa ra những hướng dẫn, nguyên tắc quan trọng nhằm mục tiêu hướng tới sự thống nhất trong phân loại các khoản nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng ở các quốc gia, nhưng không đưa ra một hệ thống phân loại nợ thống nhất hay các quy trình chuẩn hóa để đánh giá rủi ro tín dụng.
Ở Việt Nam trước đây quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng được thực hiện theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007. Theo đó các TCTD được phép thực hiện phân loại nợ theo phương pháp định lượng hoặc định tính (TCTD phải trình Ngân hàng Nhà nước chính sách dự phòng rủi ro và chỉ được thực hiện sau khi Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản).
Phân loại theo phương pháp định lượng (số ngày quá hạn) | Tỷ lệ trích lập dự phòng (%) | |
1 | Dưới 10 ngày | 0% |
2 | Từ 10 ngày đến 90 ngày | 5% |
3 | Từ 91 ngày đến 180 ngày | 20% |
4 | Từ 181 ngày đến 360 ngày | 50% |
5 | Trên 360 ngày | 100% |
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân tố tác động đến nợ xấu tại một số ngân hàng Việt Nam - Nguyễn Khắc Hải Minh - 1
- Các Nhân Tố Tác Động Đến Nợ Xấu Tại Ngân Hàng Thương Mại
- Nhân Tố Khách Quan Môi Trường Kinh Doanh Và Chính Sách Nhà
- Các nhân tố tác động đến nợ xấu tại một số ngân hàng Việt Nam - Nguyễn Khắc Hải Minh - 5
Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.
Từ năm 2013, theo thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 và thông tư số 09/2014/TT-NHNN ngày 18/03/2014 thì việc phân loại nợ sẽ tập trung tại đầu mối duy
nhất là CIC và các TCTD muốn tìm hiểu về khách hàng phải truy xuất thông tin từ CIC.
1.1.4 Tác động của nợ xấu
* Đối với các NHTM
Nợ xấu làm giảm lợi nhuận của các NHTM. Nợ xấu phát sinh đồng nghĩa với việc một phần vốn kinh doanh của ngân hàng bị tồn đọng trong các khoản nợ, ngân hàng mất đi cơ hội làm ăn khác, giảm vòng quay vốn, giảm doanh số cho vay của ngân hàng, từ đó làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Khi nợ xấu tăng, thu nhập của ngân hàng giảm do không thu hồi được nợ và phát sinh thêm các chi phí khác như chi phí trích lập dự phòng, chi phí quản lý, xử lý nợ xấu. Ngoài ra nếu nợ xấu cao, ngân hàng có thể bị NHNN đưa vào giám sát đặc biệt, hạn chế khả năng mở rộng và kinh doanh.
Nợ xấu làm ảnh hưởng xấu tới khả năng thanh khoản và kế hoạch kinh doanh của ngân hàng. Do hiện tại hoạt động chủ yếu của các NHTM là huy động tiền gửi và cho vay. Khi các khoản cho vay gặp rủi ro, thu hồi nợ khó khăn hoặc không thu hồi đủ nợ vốn và lãi. Trong khi đó ngân hàng vẫn phải thanh toán đầy đủ, đúng hạn các khoản tiền gửi. Sự mất cân đối trên ảnh hưởng rất lớn tới tính thanh khoản cũng như kế hoạch kinh doanh của ngân hàng.
Nợ xấu làm giảm uy tín của ngân hàng. Do hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng tiền của người khác nên khi tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng cao tức là chất lượng tín dụng của ngân hàng càng thấp. Ngân hàng gặp vấn đề thiếu thanh khoản, làm mất lòng tin đối với người gởi tiền, gây áp lực cho việc thu hút thêm khách hàng mới và giữ chân khách hàng cũ, làm giảm đáng kể các quan hệ giao dịch của ngân hàng, gây áp lực nguồn vốn huy động để cho vay là rất nặng nề. Đối với NHTM có niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, thì với tỷ lệ nợ xấu cao, sẽ ảnh hưởng đến giá trị tài sản của ngân hàng trên thị trường, ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư. Nếu tỷ lệ nợ xấu cao thì uy tín của ngân hàng sẽ giảm sút, là bất lợi trong cạnh tranh, trong quá trình hội nhập và phát triển.