(1.1)
(1.2)
(1.3)
(1.4)
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Liên doanh Việt Thái - 1
- Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Liên doanh Việt Thái - 2
- Mô Hình Định Lượng Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Hoạt
- Sơ Lược Quá Trình Hình Thành Và Cơ Cấu Tổ Chức Của Nhld Việt Thái
- Đánh Giá Hiệu Quả Hoạt Động Kinh Doanh Của Nhld Việt Thái Dựa Trên Các Chỉ Số Tài Chính
Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.
Tỷ lệ thu nhập trên vốn CSH (ROE)
Bằng lợi nhuận ròng chia cho vốn tự có cơ bản bình quân (Vốn cổ phần thường, cổ phần ưu đãi, các quỹ dự trữ, lợi nhuận không chia), ROE đo lường tỷ lệ thu nhập cho các cổ đông của ngân hàng. Nó thể hiện thu nhập mà các cổ đông nhận được từ việc đầu tư vốn vào ngân hàng. Chỉ tiêu này được sử dụng rất phổ biến trong phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh nhằm phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu.
(1.5)
Nhược điểm của hệ số ROE: đối với một ngân hàng cụ thể, lợi nhuận trên toàn bộ các tài sản có tương đối thấp, tuy nhiên mức lợi trên vốn cổ phần có thể rất cao. Trong trường hợp này, vốn cổ phần của ngân hàng sẽ nhỏ so với tài sản có của nó, tức là ngân hàng sẽ bị mất nhiều khả năng độc lập nên có thể đang có các rủi ro về ký thác, mặc dù mức lợi nhuận trên vốn cổ phần cao tạo ra hình ảnh ngân hàng đang hoạt động có vẻ tốt. Chính sự sắp xếp tài chính trên cho thấy sự thiếu sót của chỉ tiêu ROE khi dùng để đo lường khả năng sinh lợi của ngân hàng bằng lợi tức trên vốn cổ phần. ROE nếu quá lớn so với ROA chứng tỏ vốn huy động quá lớn so với vốn tự có của ngân hàng.
Tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản (ROA)
(1.6)
ROA là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác quản lý của ngân hàng, cho thấy khả năng trong quá trình chuyển tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng. ROA được sử dụng rộng rãi trong phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh và đánh giá tình hình tài chính của ngân hàng, nếu mức ROA thấp có thể là kết quả của một chính sách đầu tư hay cho vay không năng động hoặc có thể chi phí hoạt động của ngân hàng quá mức. Ngược lại, mức ROA cao thường phản ánh kết quả của hoạt động hữu hiệu, ngân hàng có cơ cấu tài sản hợp lý, có sự điều động linh hoạt giữa các hạng mục trên tài sản trước những biến động của nền kinh tế.
Chỉ tiêu ROA phản ánh thu nhập trên tài sản có của ngân hàng, được dùng để đo lường khả năng sinh lời của tài sản có. ROA thể hiện khả năng sử dụng linh hoạt các khoản mục của tài sản có. Hệ số ROA càng cao chứng tỏ kết quả hoạt động hữu hiệu, tỷ trọng thấp giữa tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn so với tổng ký thác, kết quả của lợi tức cao kiếm được từ tài sản có. Tỷ lệ này càng cao nói lên sự quản lý tài sản có tốt, tuy nhiên cũng thể hiện mức độ rủi ro càng cao mang lại từ tài sản có.
Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM)
Là chênh lệch giữa thu nhập lãi và chi phí lãi, tất cả chia cho tích sản sinh lãi, tức nó đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp. Hệ số lãi ròng biên tế được các chủ ngân hàng quan tâm theo dòi vì nó giúp ngân hàng dự báo khả năng sinh lãi của ngân hàng thông qua việc kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và việc tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí thấp nhất.
(1.7)
Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên (NOM)
Tỷ lệ thu ngoài lãi biên cận biên đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi, chủ yếu là nguồn thu phí từ các dịch vụ với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu (gồm tiền lương, chi phí sửa chữa, bảo hành thiết bị và chi phí tổn thất tín dụng). Đa số các ngân hàng NOM thường hay bị âm.
(1.8)
1.2.2.2 Nhóm chỉ tiêu phản ánh thu nhập, chi phí
Với chiến lược tối đa hóa lợi nhuận, các NHTM thường nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình bằng cách giảm chi phí hoạt động, tăng năng suất lao động trên cơ sở tự động hóa và nâng cao trình độ nhân viên. Do đó, các thước đo phản ánh tính hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng và năng suất lao động của nhân viên gồm các chỉ tiêu sau:
Tổng chi phí hoạt động/tổng thu từ hoạt động: là một thước đo phản ánh mối quan hệ giữa đầu vào (tử số) và đầu ra (mẫu số) hay nói cách khác nó phản ánh khả năng bù đắp chi phí trong hoạt động của ngân hàng.
Tổng thu hoạt động/tổng tài sản: phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản. Nếu hệ số này lớn phản ánh ngân hàng đã phân bổ tài sản (danh mục đầu tư) một cách hợp lý nhằm nâng cao lợi nhuận của ngân hàng.
Trên đây là hai nhóm chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lời và quản trị chi phí của ngân hàng. Đối với vấn đề rủi ro, có quá nhiều rủi ro mà các ngân hàng đang phải đối mặt như rủi ro lạm phát, thị trường, lãi suất, hối đoái, tái đầu tư, tác nghiệp... nhưng nổi bật cần phải kể đến đó là rủi ro thanh khoản thể hiện qua chỉ tiêu an toàn vốn và các chính sách quản lý tài sản có của ngân hàng, mặt khác rủi ro tín dụng cũng là rủi ro quan trọng mà các ngân hàng luôn chú trọng trước tiên.
1.2.2.3 Nhóm chỉ tiêu chất lượng nguồn vốn, tài sản
Chỉ tiêu an toàn vốn tối thiểu
Với ngân hàng, thuật ngữ “vốn” được xem như là những khoản tiền do những người chủ ngân hàng đóng góp, bao gồm chủ yếu là vốn cổ phiếu thường, các khoản thặng dư vốn, các khoản dự trữ và các khoản thu nhập giữ lại. Vốn tự có của NHTM đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm bảo cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài, bởi vì:
- Vốn tự có là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức và hoạt động.
- Vốn tự có đóng vai trò là “một tấm đệm” giúp chống lại rủi ro phá sản vì vốn giúp trang trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho đến khi ban quản lý có thể tập trung giải quyết các vấn đề đưa ngân hàng trở lại trạng thái hoạt động sinh lời.
- Vốn tự có tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo với các chủ nợ (gồm cả người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của ngân hàng.
- Vốn tự có cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới, bổ sung vốn sẽ cho phép các ngân hàng mở rộng để theo kịp với sự phát triển của thị trường.
- Vốn tự có được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm bảo rằng sự tăng trưởng của một ngân hàng có thể được duy trì và ổn định lâu dài. Các cơ quan quản lý ngân hàng và thị trường tài chính đều đòi hỏi rằng vốn ngân hàng phải được phát triển tương ứng với sự phát triển của danh mục cho vay và những tài sản rủi ro khác. Do đó, vốn tự có cần được củng cố, bổ sung tương ứng với quy mô rủi ro của ngân hàng.
Ở Việt Nam, theo thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 9%.
(1.9)
Tổng tài sản “Có” rủi ro gồm 2 khoản và được xác định theo công thức sau:
- Tài sản Có rủi ro nội bảng= TS có nội bảng x Hệ số rủi ro.
- Tài sản Có rủi ro ngoại bảng= TS ngoại bảng x Hệ số chuyển đổi x Hệ số rủi ro.
Chỉ tiêu chất lượng tài sản
Nội dung hoạt động chủ yếu của một ngân hàng thể hiện ở phía tài sản có thể hiện trên bảng cân đối kế toán của nó. Quy mô, cơ cấu và chất lượng tài sản có quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Chất lượng tài sản có là chỉ tiêu
tổng hợp nói lên chất lượng quản lý, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời và triển vọng bền vững của một ngân hàng. Tài sản có sinh lời là những tài sản đem lại nguồn thu nhập chính cho ngân hàng đồng thời cũng là những tài sản chứa đựng nhiều rủi ro. Những tài sản này bao gồm các khoản cho vay, cho thuê tài chính, các khoản đầu tư vào chứng khoán, góp vốn liên doanh, liên kết... trong đó chiếm tỷ trọng cao nhất là các khoản cho vay. Nói đến chất lượng tài sản là nói đến chất lượng tài sản có sinh lời, mà trước hết được phản ánh ở chất lượng của hoạt động tín dụng. Nếu một ngân hàng có chất lượng hoạt động tín dụng cao, thể hiện qua việc thu nợ gốc và lãi đúng hạn, bảo toàn được vốn cho vay, tỷ lệ nợ quá hạn thấp, vòng quay vốn tín dụng nhanh, thì ngân hàng đó được đánh giá về cơ bản là hoạt động an toàn và hiệu quả.
Hiệu quả hoạt động tín dụng được phản ánh qua các chỉ số phân tích sau:
Hiệu suất sử dụng vốn:
(1.10)
Chỉ số tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động cho thấy khả năng ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động được để cho vay. Nếu việc tăng trưởng nguồn vốn huy động qua các năm không kéo theo được sự tăng trưởng của dư nợ tín dụng thì điều đó chứng tỏ ngân hàng đang bế tắc trong việc tìm kiếm đầu ra, nguồn vốn bị ứ đọng.
Tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản có:
(1.11)
Chỉ số tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản có thể hiện chính sách quản lý tài sản có của ngân hàng. Tỷ lệ cao chứng tỏ ngân hàng tập trung phần lớn vào hoạt động tín dụng và nâng cao năng lực quản lý tín dụng là chủ yếu so với các hoạt động sử dụng tài sản có khác của ngân hàng.
Ngoài ra một số chỉ tiêu về chất lượng tài sản khác cũng được sử dụng để đánh giá trình độ quản lý tài sản có của ngân hàng gồm:
Tỷ lệ tài sản có sinh lời trên tổng tài sản:
Chất lượng tài sản có là chỉ tiêu quan trọng trong việc phân tích hiệu quả hoạt động của ngân hàng, là nguyên nhân cơ bản dẫn đến các vụ đổ vỡ ngân hàng. Thông thường điều này xuất phát từ việc quản lý không đầy đủ trong chính sách cho vay từ trước đến nay. Nếu thị trường biết rằng chất lượng tài sản kém thì sẽ tạo áp lực lên trạng thái nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng, và điều này có thể dẫn đến khủng hoảng thanh khoản, hoặc dẫn đến tình trạng đổ xô đi rút tiền ở ngân hàng.
Tỷ lệ tài sản có tính thanh khoản cao trên tổng tài sản
Thanh khoản và quản trị rủi ro thanh khoản là yếu tố quyết định sự an toàn trong hoạt động của bất kỳ ngân hàng thương mại (NHTM) nào. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của mọi NHTM là bảo đảm khả năng thanh khoản đầy đủ. Nghĩa là, ngân hàng hoặc có sẵn lượng vốn khả dụng trong tay, hoặc có thể tiếp cận dễ dàng các nguồn vốn vay mượn bên ngoài với chi phí hợp lý và đúng lúc cần đến; hoặc có thể nhanh chóng bán bớt một số tài sản ở mức giá thỏa đáng để đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh. Tỷ lệ tài sản có tính thanh khoản cao trên tổng tài sản sẽ cho thấy chất lượng tài sản và khả năng thanh khoản của ngân hàng để đối mặt với rủi ro thanh khoản có thể xảy ra.
1.2.2.4 Nhóm chỉ tiêu đo lường rủi ro hoạt động
Hệ số rủi ro tín dụng
(1.12)
Hệ số này cho thấy tỷ trọng của các khoản mục tín dụng trong hoạt động của ngân hàng, khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng thời rủi ro tín dụng cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng được chia thành 03 nhóm:
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: là những khoản cho vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân hàng. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: là những khoản cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mang lại cho ngân hàng là vừa phải. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: là những khoản cho vay có mức độ rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân hàng. Đây là khoản tín dụng cũng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn
Việc xác định tỷ lệ nợ quá hạn là yếu tố rất quan trọng trong việc đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng, nhằm phản ánh những khoản cho vay có khả năng hoàn trả kém. Nếu tỷ lệ này thấp chứng tỏ tình hình kinh doanh của đơn vị là tốt, hầu hết các khoản tín dụng của doanh nghiệp đều sinh lợi và có khả năng thu hồi. Ngược lại, nếu tỷ lệ này cao thì ngân hàng cần có những biện pháp kiểm soát nợ quá hạn, hạn chế những rủi ro có thể mất vốn do những khoản nợ quá hạn gây ra.
(1.13)
Quy định hiện nay của NHNN cho phép tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTM không được vượt quá 5%, nghĩa là trong 100 đồng vốn ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 5 đồng.
Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ. Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, các khoản nợ quá hạn trong hệ thống NHTM Việt Nam được phân loại theo thời gian và được phân chia theo thời hạn thành 4 nhóm (từ nhóm 2 đến nhóm 5):
Nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày: Nợ cần chú ý
Nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày: Nợ dưới tiêu chuẩn
Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày: Nợ nghi ngờ
Nợ quá hạn trên 361 ngày: Nợ có khả năng mất vốn
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM
Để xác định được biện pháp cải thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM, đòi hỏi phải xác định được các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM. Bên cạnh những chỉ tiêu thể hiện năng lực tài chính của ngân hàng thì việc phân tích môi trường bên ngoài và bên trong để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng là một bước vô cùng quan trọng. Các nhân tố này có thể được chia làm hai nhóm: nhóm nhân tố bên trong và nhóm nhân tố bên ngoài, tùy theo điều kiện cụ thể của từng ngân hàng mà hai nhóm nhân tố này có những ảnh hưởng khác nhau đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của chính các NHTM.
1.3.1 Nhóm nhân tố bên trong
Nhóm nhân tố bên trong được đề cập đến chính là các nhân tố bên trong nội bộ của chính các NHTM như các nhân tố về năng lực tài chính, khả năng quản trị điều hành, ứng dụng tiến bộ công nghệ, trình độ và chất lượng của lao động...
1.3.1.1 Năng lực tài chính
Năng lực tài chính của một DN là nguồn lực tài chính của bản thân DN, là khả năng tạo tiền, tổ chức lưu chuyển tiền hợp lý, đảm bảo khả năng thanh toán thể hiện ở quy mô vốn, chất lượng tài sản và khả năng sinh lời… đủ để đảm bảo và duy trì hoạt động kinh doanh được tiến hành bình thường. Còn năng lực tài chính của một NHTM là khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thể hiện ở quy mô vốn tự có, chất lượng tài sản, chất lượng nguồn vốn, khả năng sinh lời và khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh. Năng lực tài chính của một NHTM thể hiện ở quy mô vốn, chất lượng tài sản có, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời, khả năng tồn tại và phát triển một cách an toàn không để xảy ra đổ vỡ hay phá sản.
Năng lực tài chính của một NHTM đóng vai trò vô cùng quan trọng. Năng lực tài chính của một NHTM càng được đảm bảo thì mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng càng thấp và năng lực cạnh tranh của NHTM trên thị trường càng cao. Do vậy, năng lực tài chính của NHTM phải không ngừng được nâng cao và hoàn thiện và là điều kiện không thể thiếu được ở bất cứ một NHTM nào. Như vậy, một