Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Liên doanh Việt Thái - 2

Bảng 2.9: Tỷ lệ nợ quá hạn năm 2008-2012 43

Bảng 2.10: Tốc độ tăng trưởng GDP và CPI của Việt Nam từ năm 2010-2012 52

Bảng 2.11: Kỳ vọng dấu của các biến độc trong mô hình hồi quy 56

Bảng 2.12: Kết quả thống kê kiểm định tính dừng của các biến chuỗi thời gian

...................................................................................................................................57

Bảng 2.13Kết quả thống kê mô tả của các biến độc lập và phụ thuộc 58

Bảng 2.14: Kết quả hệ số tương quan giữa các biến 59

Bảng 2.15: Kết quả hồi quy sơ bộ 60

Bảng 2.16: Ma trận hệ số tương quan của các biến độc lập 61

Bảng 2.17: Kết quả hồi quy sau khi khắc phục hiện tượng đa cộng tuyến 62

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.

Bảng 2.18: Kết quả hồi quy cuối cùng với biến phụ thuộc ROE 63

PHẦN MỞ ĐẦU:

Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Liên doanh Việt Thái - 2


1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay, nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sự kiện này sẽ tạo ra nhiều cơ hội đồng thời cũng đặt ra những thách thức cho nền kinh tế Việt Nam, trong đó thị trường tài chính trong nước sẽ có nhiều tiềm năng phát triển cũng như những thách thức đang chờ ở phía trước. Sự tham gia của các tập đoàn tài chính và các Ngân hàng nước ngoài cũng như các ngân hàng thành lập dưới hình thức liên doanh đã tạo nên một thị trường tài chính – ngân hàng đa dạng cho Việt Nam. Tuy nhiên, sự cạnh tranh giữa các tổ chức này cũng diễn ra ngày càng gay gắt. Trong đó, mỗi tổ chức tín dụng cần phải có một nguồn tài chính đủ mạnh để đảm bảo luôn là kênh cung ứng vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp.

Trong điều kiện hiện nay, việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh là yêu cầu thiết yếu mà bất kỳ một ngân hàng thương mại nào đều phải đạt được để tiếp tục đứng vững và phát triển trong môi trường cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng. Nếu bất kỳ một ngân hàng nào hoạt động không hiệu quả thì tất yếu sẽ bị loại trừ khỏi “guồng” phát triển của toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại bằng cách bị sáp nhập hoặc mua lại bởi các ngân hàng khác. Là một ngân hàng có một thời gian hoạt động khá dài tại Việt Nam từ năm 1995, Ngân hàng Liên doanh Việt Thái đã ít nhiều tạo dựng được uy tín của mình trên thị trường tài chính Việt Nam. Tuy nhiên, do nhiều lý do đặc thù và chịu sự ảnh hưởng của các nhân tố nhất định, thành quả sau hơn 16 từ năm hoạt động vẫn còn nhiều hạn chế, mà không nói là phát triển khá chậm chạp so với các Ngân hàng Liên doanh khác. Do đó, việc tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Liên doanh Việt Thái trong thời gian qua là một mối quan tâm đáng kể. Mặt khác việc tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng để đáp ứng thị trường còn đang rất rộng mở, đầy tiềm năng là một việc làm rất cần thiết nhằm duy trì ổn định mức tăng trưởng và phát triển của ngân hàng trong ngắn hạn nói riêng và trong dài hạn nói chung. Chính vì những lý do đó, tôi đã chọn đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Liên doanh Việt Thái” để

nghiên cứu nhằm tìm ra các nhân tố ảnh hưởng, từ đó đề ra những giải pháp tích cực

để nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng hiện nay và trong thời gian tới.

2. Mục tiêu nghiên cứu

o Một là, đánh giá thực trạng hoạt động của Ngân hàng Liên doanh Việt Thái trong thời gian qua.

o Hai là, tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHLD Việt Thái trong thời gian qua thông qua xây dựng mô hình định lượng

o Ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện hoạt động và nâng cao hiệu quả hoạt động và nâng cao tính cạnh tranh của NHLD Việt Thái trong thời gian tới

3. Đối tượng nghiên cứu

o Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHLD Việt Thái trong thời gian qua thông qua xây dựng mô hình định lượng

o Tìm ra nguyên nhân, từ đó đề xuất các giải pháp

4. Phạm vi và hạn chế nghiên cứu

o Nghiên cứu tình hình hoạt động kinh doanh và bước đầu xác định các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Liên doanh Việt Thái. Thời gian thu thập số liệu: 1995 – 2012.

o Hạn chế nghiên cứu: chỉ giới hạn ở việc tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Liên doanh Việt Thái, cần mở rộng đề tài trên đối tượng nghiên cứu là các Ngân hàng Liên doanh hoặc các NHTM nói chung.

5. Phương pháp nghiên cứu

Bài nghiên cứu sử các phương pháp sau:

o Phương pháp thống kê, so sánh

o Phương pháp nghiên cứu định lượng

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

o Tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHLD Việt Thái trong thời gian qua thông qua xây dựng mô hình định lượng, từ đó đưa ra


7. Bố cục của đề tài‌

Luận văn được trình bày gồm 3 chương:

Chương I: Tổng quan về hiệu quả hoạt động kinh doanh và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.

Chương II: Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Liên doanh Việt Thái

Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Liên doanh Việt Thái


CHƯƠNG 1:

TỔNG QUAN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


1.1 Hoạt động kinh doanh của NHTM‌

1.1.1 Khái niệm về hoạt động kinh doanh của NHTM

Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. NHTM là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu. Hoạt động của NHTM nhằm mục đích kinh doanh một hàng hóa đặc biệt đó là "vốn- tiền", trả lãi suất huy động vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi nhuận của NHTM. Hoạt động của NHTM phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.

Luật TCTD Việt Nam ghi rò: “Ngân hàng là một loại hình TCTD được phép thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”. Và hoạt động ngân hàng đã được định nghĩa trong Luật ngân hàng nhà nước do Quốc hội khóa X thông qua: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.

1.1.2 Các hoạt động chủ yếu của NHTM

NHTM là loại hình tổ chức tài chính được phép hoạt động kinh doanh đa dạng nhất trên thị trường tài chính bao gồm hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng và đầu tư và các hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính khác như dịch vụ thanh toán, tư vấn tài chính, quản lý hộ tài sản, kinh doanh ngoại tệ…

1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn

Khác với các doanh nghiệp phi tài chính, nguồn vốn chủ sở hữu của các NHTM chiếm rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, do đó để đảm bảo cho hoạt động của mình công tác quan trọng đầu tiên của các NHTM đó chính là hoạt động huy động


vốn. Công tác huy động vốn bao gồm: huy động vốn tiền gửi và huy động vốn phi tiền gửi. Các NHTM huy động các nguồn vốn nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh doanh thông qua các nghiệp vụ: tiết kiệm, tiền gửi từ các thành phần dân cư, tiền gửi giao dịch, phát hành giấy tờ có giá, đi vay trên thị trường tiền tệ, vay Ngân hàng Nhà nước…‌

1.1.2.2 Hoạt động tín dụng

Nguồn vốn ngân hàng thương mại huy động được chủ yếu được đem cho vay và tái đầu tư trở lại nền kinh tế. Ngay từ thời kỳ sơ khai của các ngân hàng thương mại, nghiệp vụ tín dụng đã được coi là một hoạt động quan trọng bậc nhất đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng, cũng như đem lại hiệu quả to lớn cho xã hội. Các sản phẩm gắn liền với hoạt động tín dụng bao gồm: cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống; cho vay trung dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh; đầu tư vào giấy tờ có giá; góp vốn liên doanh liên kết …

1.1.2.3 Hoạt động cung cấp dịch vụ khác

Trong nền kinh tế hiện đại, yêu cầu về các sản phẩm tài chính ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều hơn sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường từ các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các ngân hàng thương mại. Do vậy, xuất hiện một xu hướng đáp ứng nhu cầu của mọi đối tượng khách hàng một cách tốt nhất, đang dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tiến tới giảm dần sự phụ thuộc thu nhập của ngân hàng vào thu nhập từ hoạt động tín dụng. Dịch vụ ngân hàng khác bao gồm: dịch vụ thanh toán, kinh doanh ngoại hối, dịch vụ môi giới, bảo lãnh, tư vấn tài chính …

1.2 Hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM

1.2.1 Khái niệm hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM

Hiệu quả kinh doanh hiểu theo mục đích cuối cùng thì đồng nghĩa với phạm trù lợi nhuận, là hiệu số giữa kết quả thu về với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cao hay thấp phụ thuộc vào trình độ tổ chức sản xuất và quản lý của mỗi doanh nghiệp, đồng thời với đó là sự thay đổi


công nghệ, sự kết hợp và phân bổ hợp lý các nguồn lực, trình độ lành nghề của lao

động, trình độ quản lý …

Kinh doanh ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt. Chất liệu kinh doanh chủ yếu của loại hình này là “quyền sử dụng các khoản tiền tệ”. Trong điều kiện của cơ chế thị trường tiền tệ có một chức năng đặc biệt là nó vừa là công cụ để huy động các nguồn tài nguyên xã hội vào quá trình sản xuất phân phối, tiêu dùng như lao động, nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị, các công nghệ sản xuất, v.v… đồng thời nó còn là một công cụ để Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ trong nền kinh tế. Hoạt động của ngân hàng hiện đại ngày nay rất đa dạng, phong phú bao gồm: hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng, dịch vụ tài chính, hoạt động đầu tư và cung cấp dịch vụ cho khách hàng... Các NHTM hoạt động đều nhằm mục tiêu lợi nhuận, dưới áp lực phải hạ thấp chi phí trong điều kiện cạnh tranh với những định chế tài chính khác nên có thể khẳng định rằng kinh doanh ngân hàng là loại hình hình doanh gặp nhiều rủi ro nhất trong các loại hình kinh doanh. Vì thế, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của các NHTM là rất cần thiết cho các nhà quản trị ngân hàng và các nhà quản trị ngân hàng cần phải đo lường hiệu quả cho từng hoạt động.

Hiện nay, các nhà quản trị ngân hàng chú trọng đến các chỉ tiêu hiệu quả từng hoạt động sau: hiệu quả sử dụng vốn huy động, quản trị rủi ro tín dụng, chỉ tiêu thu nhập-chi phí, tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản và vốn chủ sờ hữu, lãi suất bình quân đầu vào, lãi suất bình quân đầu ra… Phân tích hiệu quả là một quan trọng của công tác quản trị ngân hàng, là cơ sở đánh giá quá trình thực hiện chiến lược kinh doanh, xác định nguyên nhân ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh và kiến nghị những giải pháp xử lý, là cơ sở cho những quyết định kịp thời và đúng đắn. Các chỉ tiêu này giúp cho ngân hàng đánh giá được hiệu quả của quá trình kinh doanh bằng cách so sánh kết quả kinh doanh đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.

Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tương đối có thể được thể hiện dưới dạng tĩnh (hiệu quả hoạt động = kết quả kinh tế/chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó hoặc dạng nghịch hiệu quả hoạt động = chi phí/kết quả kinh tế) hoặc dưới dạng động hay dạng cận biên (hiệu quả hoạt động = mức tăng kết quả kinh tế/mức tăng chi phí).


Như vậy, quan điểm về hiệu quả là đa dạng. Xuất phát từ những hạn chế về thời gian và kỹ thuật phân tích, quan điểm về hiệu quả hoạt động kinh doanh được sử dụng trong bài luận văn này sẽ vẫn sử dụng quan điểm truyền thống về hiệu quả hoạt động kinh doanh hiện nay là chỉ tiêu tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE).

1.2.2 Đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM qua các chỉ số tài chính

Các hệ số tài chính là công cụ được sử dụng phổ biến nhất trong đánh giá, phân tích và phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM. Mỗi hệ số cho biết mối quan hệ giữa hai biến số tài chính qua đó cho phép phân tích và so sánh giữa các ngân hàng và phân tích xu hướng biến động của các biến số này theo thời gian. Vấn đề lợi nhuận và rủi ro luôn song hành trong hoạt động của từng ngân hàng, hay nói một cách tổng quát, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng cao. Ngân hàng cố gắng tối đa hóa giá trị đầu tư của vốn chủ sở hữu trong ngân hàng bằng cách cân bằng sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận. Có nhiều loại hệ số tài chính được sử dụng để đánh giá các khía cạnh hoạt động khác nhau của một ngân hàng, các hệ số tài chính này bao gồm các tỷ số phản ánh chất lượng nguồn vốn - tài sản, các tỷ số phản ánh khả năng sinh lợi, các tỷ số phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh và các tỷ số phản ánh rủi ro tài chính như rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng...

1.2.2.1 Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời

Khả năng sinh lời là kết quả cụ thể nhất của quá trình kinh doanh, mọi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường chỉ có thể tồn tại và đứng vững được bằng cách kinh doanh có hiệu quả. Đánh giá thu nhập là khâu then chốt trong phân tích vì thu nhập tạo ra tăng trưởng nội tại tác động đến khả năng huy động vốn bên ngoài tạo hình ảnh tốt cho ngân hàng trong thị trường tiền tệ.

Nhóm chỉ tiêu này phản ánh tính hiệu quả của một đồng vốn kinh doanh - theo thông lệ quốc tế thường được phản ánh thông qua các chỉ tiêu sau: thu lãi biên ròng (NIM), thu ngoài lãi biên ròng (NOM), thu nhập hoạt động biên (TNHĐB), hệ số thu nhập trên cổ phiếu (EPS), thu nhập ròng trên tổng tài sản (ROA) và thu nhập ròng trên tổng vốn chủ sở hữu (ROE).

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/06/2022