Các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam - 2

thống thanh toán liên ngân hàng. Sự tham gia của thương mại điện tử cũng làm nảy sinh các vấn đề về công nghệ của ngân hàng. Các ngân hàng giải quyết được những thách thức này sẽ quyết định được sự ảnh hưởng của mình đối với thị trường điện tử hoá. Đứng trước yêu cầu đó ngân hàng đã cho ra nhiều dịch vụ mới : dịch vụ ngân hàng qua điện thoại sử dụng mã cá nhân, hoặc nhận dạng giọng nói; dịch vụ ngân hàng qua mạng internet, khách hàng chỉ cần một máy tính cá nhân nối mạng internet là có thể giao dịch với ngân hàng mà không cần phải trực tiếp đến ngân hàng. Những dịch vụ này đã đưa đến một thực tế là, thế giới ngày nay cho ta thấy có một loại ngân hàng mới: dịch vụ ngân hàng điện tử.

Ngân hàng điện tử là ngân hàng mà các dịch vụ được cung cấp qua các phương tiện kỹ thuật điện tử, khách hàng không cần đến trực tiếp tại các chi nhánh của ngân hàng mà vẫn có thể thực hiện được các giao dịch và nắm bắt được thông tin tài chính của mình.

Hiện nay, một số người vẫn thường đồng nhất dịch vụ internet banking với dịch vụ ngân hàng điện tử (e-banking). Trên thực tế, dịch vụ e-banking có nội hàm rộng hơn internet banking rất nhiều. Nếu như internet banking chỉ đơn thuần là việc cung ứng các dịch vụ ngân hàng thông qua mạng internet, thì dịch vụ e-banking còn bao hàm cả việc cung cấp các dịch vụ thông qua một số phương tiện khác như: fax, điện thoại, e-mail….Như vậy, internet banking là một bộ phận của e-banking và với những tiện ích của internet so với các phương tiện khác là giá giao dịch tương đối rẻ, tốc độ nhanh và có thể truyền được dữ liệu tới khắp mọi nơi trên thế giới một cách nhanh nhất thì internet banking được coi là linh hồn của e-banking.

b. Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng điện tử


Khoảng hơn một thập kỷ trước đây, hàng loạt các ngân hàng bắt đầu cung ứng một chương trình phần mềm cho khách hàng nhằm giúp khách hàng có thể xem số dư tài khoản, đồng thời thực hiện một số lệnh thanh toán cho một số dịch vụ công cộng như tiền điện, tiền nước…Đến năm 1995, e-

banking chính thức được triển khai thông qua chương trình phần mềm Quicken của công ty Intuit Inc., với sự tham gia của 16 ngân hàng lớn nhất nước Mỹ. Khi đó, khách hàng chỉ cần một máy vi tính, một modem và phần mềm Quicken là có thể sử dụng được dịch vụ này.

Kể từ đó, e-banking đã và đang được nhân rộng ra ngoài nước Mỹ đến tất cả các châu lục khác. Ngày nay, ở những nước phát triển, dịch vụ này trở nên khá quen thuộc với khách hàng vì tính tiện lợi và hiệu quả của nó. Như ở Mỹ, năm 1998 có 7 triệu hộ gia đình giao dịch với ngân hàng qua Internet, năm 2001 có khoảng 10 triệu và dự kiến năm 2003 con số này sẽ lên tới 60 triệu1.

Ở Việt Nam , dịch vụ e-banking đã được khởi động từ năm 1994, nhưng phải đến năm 2002, công nghệ thông tin Việt Nam mới đủ sức thích ứng với việc triển khai loại hình dịch vụ này.

c. Ba cấp độ của dịch vụ ngân hàng điện tử

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.


Dịch vụ e-banking được chia thành ba cấp độ khác nhau:

Các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam - 2


Ở cấp độ sơ đẳng nhất, e-banking không khác nhiều so với giao dịch qua điện thoại hay giao dịch với một máy rút tiền tự động. Bằng cách sử dụng bàn phím số của điện thoại, khách hàng có thể biết được tình hình tài khoản của mình hoặc có thể thực hiện các giao dịch đơn giản như chuyển tiền từ tài khoản tiết kiệm sang tài khoản vãng lai của cùng một chủ tài khoản.

Ở cấp độ thứ hai, internet đóng vai trò tích cực hơn. Lúc này mỗi trang chủ của ngân hàng trên internet được xem như một cửa sổ giao dịch. Ngoài chức năng kiểm tra tài khoản, khách hàng còn có thể sử dụng hàng loạt các dịch vụ trực tuyến khác như vay mua hàng, mua một hợp đồng bảo hiểm và kể cả đầu tư vào chứng khoán…

Ở cấp độ thứ ba, ngân hàng đóng vai trò rất to lớn, hỗ trợ cho thương

mại điện tử giữa các doanh nghiệp phát triển. Mọi giao dịch như chuyển tiền,


1 Theo sliu ca nhà phân tích Joe Demeo, Btư pháp M, (12/2001)

mở thư tín dụng cho hợp đồng mua bán giữa các nhà xuất nhập khẩu, mở các thư bảo lãnh…đều có thể thực hiện trực tuyến. Khách hàng sẽ không phải đến trụ sở của ngân hàng mà vẫn có thể thực hiện được các giao dịch thông qua một chương trình do ngân hàng cài đặt tại văn phòng của khách hàng. Chương trình này cho phép truy cập đến máy chủ của ngân hàng 24/24 giờ và cả bảy ngày trong tuần.

Hiện nay, ở châu Âu và châu Mỹ, e-banking là một khái niệm không còn xa lạ đối với dân chúng, nhưng ở châu Á và đặc biệt là ở Việt Nam, giao dịch này thuộc loại chưa phổ biến. Do đó, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài thường giành được ưu thế và đi tiên phong trong lĩnh vực còn mới mẻ này như ngân hàng ANZ, ngân hàng HSBC…Tuy nhiên, một số ngân hàng Việt Nam cũng đã có những bước phát triển nhất định trong việc ứng dụng dịch vụ ngân hàng điện tử để tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài nhưng vẫn còn ở cấp độ sơ đẳng và đang có một số hoạt động ở cấp độ thứ hai.

d. Các loại sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử


Ngân hàng điện tử cung cấp cho khách hàng nhiều loại sản phẩm dịch vụ

tiện ích:


Các loại thẻ nhựa: thẻ nhựa là tên mà người ta đặt cho các loại thẻ nhựa dùng thay thế cho tiền mặt. Có nhiều tên gọi khác nhau cho những loại thẻ này, nhưng nhìn chung chúng đều có hai chức năng chính: giúp cho người ta có thể rút được tiền mặt hoặc thực hiện thanh toán mà không cần dùng đến tiền mặt hoặc séc. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng lớn trên thế giới đều có thể phát hành một thẻ mang ba chức năng cho khách hàng của họ là: Chức năng bảo chi séc (theo đó ngân hàng đảm bảo thanh toán cho khoản tiền ghi trên séc do khách hàng phát hành tới một hạn mức nhất định), chức năng rút tiền mặt từ các máy rút tiền tự động, chức năng thanh toán hàng hoá, dịch vụ bằng chuyển tiền điện tử tại điểm bán hàng.

Hệ thống thanh toán điện tử tại các điểm bán hàng: đây còn gọi là dịch vụ chuyển tiền điện tử tại điểm bán hàng. Số tiền phải trả cho hàng hoá sẽ được chuyển bằng công nghệ điện tử tại điểm bán hàng từ ngân hàng của người mua sang ngân hàng của người bán. Điểm bán hàng có thể là tại siêu thị hay trạm bán xăng, nơi mà khách hàng sử dụng thẻ để thanh toán cho hàng hoá. Người bán hàng kéo trượt thẻ qua máy cà thẻ. Đây thực chất là một thiết bị đọc, có thể đọc được các thông tin được mã hoá trên dải từ nằm ở mặt sau thẻ.

Máy rút tiền tự động (ATM): máy này cho phép khách hàng tự mình rút tiền mà không cần sự trợ giúp nào của nhân viên ngân hàng. Khách hàng dùng các loại thẻ nhựa đưa vào máy rút tiền tự động, các máy này sẽ nhận dạng khách hàng thông qua mã số nhận dạng cá nhân mà khách hàng nhập trên bàn phím của máy. Ngoài chức năng chủ yếu là cho phép khách hàng rút tiền mặt, các máy ATM còn cung cấp một loạt các tiện ích khác như cho phép khách hàng vấn tin tài khoản, chuyển tiền giữa các tài khoản, yêu cầu báo cáo tài khoản chi tiết hoặc in các báo cáo tài khoản mini…

Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại: đây là loại hình dịch vụ ngân hàng mà khi sử dụng nó, khách hàng chỉ cần dùng hệ thống điện thoại thông thường. Với dịch vụ này, khách hàng có thể mọi nơi, mọi lúc dùng điện thoại cố định hay điện thoại di động để nghe được các thông tin về sản phẩm dịch vụ ngân hàng, thông tin tài khoản của mình và thậm chí có thể thực hiện được một số loại giao dịch. Đây là hệ thống trả lời tự động, hoạt động 24/24 giờ trong ngày, 7 ngày trong một tuần, 365 ngày trong một năm, nên khách hàng hoàn toàn chủ động sử dụng khi cần thiết.

Dịch vụ ngân hàng tại nhà: là một loại dịch vụ ngân hàng điện tử cho phép khách hàng có thể chủ động kiểm soát hoạt động giao dịch ngân hàng từ văn phòng của họ. Hệ thống này giúp khách hàng tiết kiệm được rất nhiều thời gian và tiền bạc vì họ không cần phải đến giao dịch trực tiếp tại ngân hàng, khách hàng sẽ có nhiều thời gian hơn để tập trung vào các hoạt động

kinh doanh của mình. Khách hàng cũng không còn phải lo lắng về nạn kẹt xe cũng như các loại giấy tờ sổ sách phức tạp. Với sự trợ giúp của dịch vụ này, việc giao dịch ngân hàng đối với khách hàng giờ đây chỉ còn là việc bấm bàn phím máy tính, vào thời điểm thuận tiện nhất của mình.

Dịch vụ ngân hàng qua mạng máy tính toàn cầu (internet banking): là một loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại và còn khá mới mẻ. Nó cho phép khách hàng có thể giao dịch ngân hàng thông qua mạng internet vào bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu mà khách hàng cho là phù hợp nhất. Do đó, khách hàng có thể làm giao dịch 24 giờ trong ngày, 7 ngày trong tuần tại nhà riêng hoặc ở văn phòng, khi đang ở trong nước hay đang ở nước ngoài. Sự ra đời của internet banking thực sự là một cuộc cách mạng, nó thúc đẩy các giao dịch xảy ra nhanh hơn, tiết kiệm được nhiều thời gian và tiền cho cả khách hnàg lẫn ngân hàng và cho cả xã hội.

Dịch vụ ngân hàng qua vô tuyến truyền hình tương tác: đây là một loại hình dịch vụ có tính hai chiều được cung cấp thông qua hệ thống truyền hình kỹ thuật số. Thông tin không chỉ đi một chiều từ đài truyền hình tới các khán giả mà còn cả theo chiều ngược lại. Với dịch vụ này, khách hàng không còn thụ động ngồi xem các chương trình của đài truyền hình phát mà họ hoàn toàn chủ động trong việc xem gì, khi nào. Ví dụ, khán giả có thể lấy thêm các thông tin chi tiết hơn về một bộ phim tài liệu nào đó đang phát hoặc thông qua bộ điều khiển từ xa có thể gửi ý kiến phản hồi về đài truyền hình.

Dịch vụ ngân hàng qua mạng viễn thông không dây: đây là loại dịch vụ ngân hàng điện tử mới nhất hiện nay dựa trên công nghệ điện tử viễn thông không dây của mạng điện thoại di động. Thực chất dịch vụ này chính là sự kết nối điện thoại di động của khách hàng với trung tâm cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử và kết nối internet trên điện thoại di động sử dụng giao thức truyền thông.

e. Phương thức giao dịch trong dịch vụ ngân hàng điện tử

Việc thiết lập giao dịch điện tử có thể được thực hiện theo hai phương thức là phương thức giao dịch trực tiếp và phương thức giao dịch từ xa thông qua mạng internet hay thông qua điện thoại.

* Phương thức giao dịch trực tiếp


Với phương thức giao dịch trực tiếp, thông qua việc khách hàng trực tiếp đến ngân hàng, xuất trình các tài liệu để giao dịch, ngân hàng có thể kiểm tra các tài liệu này, kiểm tra chứng minh thư, chữ kí, giấy uỷ nhiệm, từ đó ngân hàng có thể kiểm tra thẩm quyền của người tham gia giao dịch, từ đó đảm bảo chắc chắn việc giao dịch, chuyển giao thông tin được chính xác.

* Phương thức giao dịch từ xa (thông qua mạng internet hay điện

thoại)


Trong trường hợp khách hàng thực hiện đề nghị thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử thông qua mạng internet hay điện thoại, ngân hàng sẽ có một số khó khăn trong việc kiểm tra, xác thực khách hàng do thiếu các phương tiện truyền thống như: chữ kí, chứng minh thư…Trong trường hợp này, thông thường các ngân hàng xác định khách hàng thông qua việc yêu cầu khách hàng điền đầy đủ vào mẫu đề nghị giao dịch ngân hàng điện tử và gửi đến ngân hàng, trong mẫu này có những thông tin mà chỉ có ngân hàng và khách hàng mới có thể biết được. Ví dụ, các thông tin mà Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam yêu cầu khách hàng của mình phải điền đầy đủ khi có đề nghị thiết lập giao dịch điện tử là: tên người mở tài khoản, số, ngày, số chứng minh thư, địa chỉ, số điện thoại, số tài khoản, loại tài khoản, địa chỉ e-mail,số zip. Trong đó, chỉ có thông tin về mã số zip là chỉ có ngân hàng và khách hàng mới biết được. Song đây chỉ là mã giao dịch nên không có quy định buộc ngân hàng và khách hàng phải giữ bí mật. Mặt khác, mã số này không chỉ sử dụng cho khách hàng trong giao dịch mở tài khoản tiền gửi mà còn sử dụng trong các mẫu giao dịch liên quan đến tiền gửi tiết kiệm nên khả năng bị tiết lộ thông tin là khá cao.

Sau khi ngân hàng chấp nhận đề nghị thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử, ngân hàng sẽ gửi thông báo cho khách hàng trong đó cung cấp cho khách hàng tên giao dịch và mã số để giao dịch và khách hàng được khuyến nghị thay đổi mã số để đảm bảo an toàn. Việc cung cấp tên giao dịch và mã số giao dịch có thể thực hiện thông qua phương thức gửi thư giấy, song hiện nay ngân hàng thường chuyển bằng thư điện tử.

Liên quan đến việc sửa chữa, thay đổi, cung cấp lại tên giao dịch và mã số, để tạo thuận lợi cho khách hàng, các ngân hàng cũng cho phép thực hiện yêu cầu giao dịch thông qua mạng và quá trình này cũng tương tự như quá trình thiết lập giao dịch qua mạng hay điện thoại đã được trình bày như trên.

Qua việc xem xét quá trình thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử, có thế thấy việc kiểm tra, xác thực khách hàng là một khâu rất quan trọng để đảm bảo đúng đối tượng. Bên cạnh đó, việc thiết lập phương thức cung cấp, chuyển giao thông tin giao dịch một cách thận trọng là rất cần thiết để đảm bảo sự an toàn và bí mật thông tin tiền gửi của khách hàng.

Do có hai phương thức để thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử nên khách hàng có thể lựa chọn phương thức nào tiện lợi nhất cho mình để sao cho nhanh chóng và hiệu quả. Ngày nay, do yêu cầu tiết kiệm thời gian nên khách hàng thường thực hiện theo phương thức giao dịch từ xa thông qua mạng internet hoặc thông qua điện thoại.

2. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự ra đời và phát triển của ngân hàng

điện tử


a. Sự phát triển của thương mại điện tử


Trước tiên, có thể khẳng định ngân hàng điện tử ra đời là nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử. Xu thế cạnh tranh ngày càng khốc lịêt giữa các doanh nghiệp trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã buộc họ phải luôn luôn tiếp cận với những thành tựu mới của khoa học kĩ thuật nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. Việc áp dụng thương mại điện tử vào hoạt động kinh doanh trở thành một yêu cầu tất

yếu đối với tất cả các doanh nghiệp vì thương mại điện tử đưa lại những lợi

ích tiềm tàng cho họ.


*Đối với doanh nghiệp :


- TMĐT trước hết giúp cho các doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về kinh tế- thương mại, nhờ đó, có thể xây dựng được chiến lược sản xuất và kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển của thị trường trong nước, khu vực, và thị trường quốc tế.

- Giảm chi phí sản xuất : TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất trước hết là chi phí văn phòng.Các văn phòng không giấy tờ chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm, chuyển giao tài liệu giảm đi nhiều lần. Điều quan trọng hơn là các nhân viên có năng lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn, sự vụ, có thể tập trung vào nghiên cứu phát triển, sẽ đưa đến những lợi ích to lớn lâu dài.

- Giảm chi phí bán hàng và tiếp thị : TMĐT giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị. Bằng phương tiện internet, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng, catalogue điện tử trên Web phong phú hơn nhiều và thường xuyên cập nhật so với catalogue in ấn chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn lỗi thời.

- Giảm chi phí giao dịch: Thương mại điện tử qua internet giúp người tiêu thụ và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch (giao dịch được hiểu là quá trình quảng cáo, tiếp xúc ban đầu, giao dịch đặt hàng, giao dịch thanh toán). Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax và bằng khoảng 0,5 phần nghìn thời gian giao dịch qua bưu điện.

- Cải tiến quan hệ trong công ty, với đồng nghiệp, đối tác, bạn hàng : TMĐT tạo điều kiện cho việc thiết lập và cũng cố mối quan hệ giữa các thành tố tham gia vào quá trình thương mại: Thông qua mạng các thành tố tham gia có thể giao tiếp trực tiếp và liên tục với nhau gần như không còn khoảng cách về địa lý và thời gian nữa; nhờ đó cả sự hợp tác lẫn sự quản lý đều được tiến

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/05/2022