lượng vụ việc trợ giúp pháp lý trên địa bàn mình quản lý; công tác quản lý chất lượng vụ việc tại đa số các Trung tâm chưa được quan tâm đúng mức.
Việc triển khai đánh giá chất lượng vụ việc tại một số Trung tâm còn chậm, chưa sâu sắc và thiếu toàn diện; các hoạt động đánh giá, thẩm định chất lượng vụ việc còn mang nặng tính hình thức. Mặc dù số vụ việc không đạt chất lượng chiếm tỷ lệ thấp (2%) nhưng số vụ việc cụ thể là con số không nhỏ trên thực tế và phần lớn là những vụ việc có tính chất phức tạp. Do đó, chưa kịp thời chỉ ra và khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong các hoạt động trợ giúp pháp lý cụ thể, ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý.
7. Chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan, ban, ngành và các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý.
Công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan với tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý có lúc, có nơi còn chưa thật chặt chẽ, cá biệt có cơ quan, tổ chức vẫn coi trợ giúp pháp lý là nhiệm vụ của riêng ngành tư pháp. Vì vậy, nhiều cơ quan, đơn vị khi nhận được kiến nghị có đầy đủ căn cứ pháp lý của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý vẫn chưa dành thời gian nghiên cứu, trả lời theo đúng quy định; thậm chí có trường hợp không trả lời hoặc giải quyết còn chung chung, dẫn đến hiệu quả trợ giúp chưa cao.
Một số cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm theo Thông tư liên tịch số 10. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (đặc biệt là tổ chức luật sư toàn quốc và các Đoàn Luật sư) trong công tác trợ giúp pháp lý còn hạn chế, chưa phát huy hết vị trí, vai trò, khả năng trong việc vận động, tập hợp thành viên, hội viên tham gia trợ giúp pháp lý hoặc đóng góp, hỗ trợ cho Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam cũng như các hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý.
8. Công tác quản lý nhà nước về hoạt động trợ giúp pháp lý còn có những bất cập ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý.
Việc nâng cấp, kiện toàn cơ quan quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý còn chậm so với tiến độ đã đề ra. Công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý chưa phát huy hết tiềm năng, vì thế chưa làm tốt việc khuyến khích, huy động các nguồn lực xã hội tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý hoặc đóng góp, hỗ trợ cho Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam (mặc dù thể chế pháp lý về tổ chức và hoạt động của Quỹ đã khá đầy đủ, bài bản); công tác thống kê, báo cáo, cập nhật thông tin về trợ giúp pháp lý còn thủ công, chậm được đổi mới. Đến nay, vẫn chưa có đầy đủ thông tin về tham gia trợ giúp pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật thuộc các tổ chức đoàn thể xã hội.
Tiểu kết chương 2
Trong Chương 2, tác giả đã đi sâu phân tích thực trạng về hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trong thời gian qua thông qua việc phân tích thực trạng về tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý, thực trạng về cơ sở vật chất, nguồn kinh phí bảo đảm cho hoạt động trợ giúp pháp lý; thực trạng về hoạt động trợ giúp pháp lý mà trọng tâm là hoạt động cung cấp các dịch vụ pháp lý cho người dân; chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; hoạt động truyền thông về trợ giúp pháp lý; công tác phối hợp trong hoạt động trợ giúp pháp lý. Đối với mỗi khía cạnh, tác giả đã đi sâu phân tích những kết quả đã đạt được cũng như chỉ ra những khó khăn, bất cập, hạn chế đã gây ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trong thời gian qua.
Từ thực trạng về tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp lý trong thời gian qua cho thấy, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý là một yêu cầu cấp thiết. Vì vậy cần có các giải pháp để bảo đảm hoạt động trợ giúp pháp lý trong thời gian tới đạt được hiệu quả cao hơn nữa đáp ứng được yêu cầu của người dân.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Về Nguồn Tài Chính, Cơ Sở Vật Chất Bảo Đảm Cho Hoạt Động Trợ Giúp Pháp Lý
- Công Tác Phối Hợp Trong Hoạt Động Trợ Giúp Pháp Lý
- Đánh Giá Chung Về Hiệu Quả Hoạt Động Trợ Giúp Pháp Lý
- Tiếp Tục Củng Cố, Kiện Toàn, Phát Triển Mạng Lưới Các Tổ Chức Thực Hiện Trợ Giúp Pháp Lý Theo Quyết Định Số 792/qđ-Ttg Của Thủ Tướng Chính Phủ
- Xây Dựng Cơ Chế Phối Hợp Thực Hiện Trợ Giúp Pháp Lý Có Hiệu Quả Của Các Cơ Quan, Ban, Ngành, Các Cấp Với Tổ Chức Thực Hiện Trợ Giúp Pháp Lý
- Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý - 13
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
Chương 3
CÁC QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Các quan điểm bảo đảm hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
Trên cơ sở những quan điểm được thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (Khoá VII), Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ ba (Khoá VIII) về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 24.5.2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02.06.2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó đã xác định nhiệm vụ cải cách nền hành chính nhà nước, cải cách tư pháp, việc hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành tư pháp nói chung và lĩnh vực trợ giúp pháp lý nói riêng phải được tiến hành theo các quan điểm chỉ đạo sau đây:
Thứ nhất: Hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý dựa trên những quan điểm, chủ trương xoá đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước ta; quan điểm xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân... Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số là một trong những chủ trương xoá
đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa, thực hiện công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ trong tổng thể chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội của Đảng và Nhà nước, trong đó có vấn đề chăm lo xoá đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, giữa các dân tộc, giữa các tầng lớp dân cư, đặc biệt quan tâm đến các vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, các gia đình thuộc diện chính sách, làm cho mọi người, mọi nhà đều tiến tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việc làm, có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành và chữa bệnh, ai cũng được tiếp cận với dịch vụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bảo đảm công bằng xã hội. Việc chăm lo cho con người, cho cộng đồng xã hội là trách nhiệm của toàn xã hội và là sự nghiệp của Đảng và Nhà nước.
Trợ giúp pháp lý giúp cho người nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số có điều kiện tiếp cận với pháp luật, từ đó mà hiểu biết pháp luật, tự mình ứng xử phù hợp với các quy định của pháp luật và sử dụng pháp luật để tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thực hiện sống và làm việc theo pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Thứ hai: Hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với quá trình cải cách đồng bộ hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp; phù hợp với các định hướng sửa đổi, bổ sung của Hiến pháp 1992 về thể chế chính trị, kinh tế và bộ máy nhà nước, cũng như các luật về tổ chức bộ máy nhà nước.
Tổ chức và hoạt động của các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý gắn liền với hệ thống tổ chức hành chính Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, đồng thời thuộc hệ thống tổ chức của ngành tư pháp, do đó việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý phải
được tiến hành đồng bộ với việc cải cách hành chính Nhà nước và cải cách tư pháp. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám Khoá VII đã đề ra nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có nhiệm vụ: "Tiếp tục sửa đổi, bổ sung pháp luật, làm cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp".
Quy định rò nguyên tắc, nội dung hoạt động của các tổ chức hỗ trợ tư pháp để hỗ trợ đắc lực cho hoạt động xét xử của Toà án một cách khách quan, chính xác và đúng luật. Nhà nước tăng cường hướng dẫn, theo dòi, kiểm tra, khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong công tác dịch vụ và tư vấn pháp lý, kể cả các tổ chức và người nước ngoài [20, tr. 37].
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, trong phần "tiếp tục cải cách bộ máy Nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" đã đề ra phương hướng cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp ở ba lĩnh vực:
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan Tư pháp, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật;
- Củng cố kiện toàn bộ máy các cơ quan Tư pháp; đổi mới tổ chức, hoạt động các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp;
- Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có phẩm chất, đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, bảo đảm cho bộ máy trong sạch, vững mạnh.
Phát triển trợ giúp pháp lý phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật và Chiến lược phát triển Ngành Tư pháp; kịp thời thể chế hóa và tổ chức thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý trong các Điều ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên; góp phần bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền công dân, bảo vệ công lý; góp phần tăng cường tranh tụng, nâng cao chất lượng thực thi công vụ và trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Thứ ba: Từng bước thực hiện xã hội hoá hoạt động trợ giúp pháp lý.
Nhà nước đóng vai trò nòng cốt trong việc tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, phát huy tính chủ động, tự giác, tích cực tham gia thực hiện của người thực hiện trợ giúp pháp lý; tiến tới giai đoạn Nhà nước đóng vai trò thu hút, điều phối nguồn lực để huy động các tổ chức xã hội tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý; Nhà nước tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý; kế thừa kết quả đã đạt được trong việc phát triển hệ thống trợ giúp pháp lý của Nhà nước.
Nhà nước huy động, khuyến khích mọi nguồn lực xã hội, các tổ chức đoàn thể xã hội và cộng đồng tham gia trợ giúp pháp lý, nhất là các luật sư, luật gia, các chuyên gia pháp lý ở các lĩnh vực của đời sống xã hội; nghiên cứu chính sách hỗ trợ các tổ chức, cá nhân khi thực hiện trợ giúp pháp lý.
Thứ tư: Hoạt động trợ giúp pháp lý phải gắn với cơ sở, hướng về cơ sở, được tổ chức thực hiện lồng ghép trong các chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa, an sinh xã hội, chính sách dân vận và dân tộc để gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội; đặc biệt ưu tiên đầu tư phát triển tại vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đáp ứng đầy đủ nhu cầu giúp đỡ pháp luật của nhân dân.
Thứ năm: Tăng cường đầu tư, đổi mới các hình thức, phương thức trợ giúp pháp lý theo hướng hiện đại hóa, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong công tác trợ giúp pháp lý và tăng cường chất lượng dịch vụ. Tiếp tục phát triển hướng tới chuẩn chung về chất lượng dịch vụ theo yêu cầu hội nhập quốc tế.
3.2. Các giải pháp bảo đảm hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong thời gian tới
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về trợ giúp pháp lý để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc củng cố, kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý
- Hoàn thiện thể chế, chính sách để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và khả thi của hệ thống pháp luật về chế định luật sư nhà nước trong các quy định của các Bộ luật tố tụng và pháp luật có liên quan.
Tổ chức nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn việc thi hành Luật trợ giúp pháp lý, nghiên cứu các vấn đề lớn về mô hình tổ chức, huy động nguồn lực để chuẩn bị cho việc sửa đổi Luật trợ giúp pháp lý và các luật tố tụng có liên quan, sửa đổi, bổ sung Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều về Luật trợ giúp pháp lý, trong đó xác định chức danh phù hợp cho Trợ giúp viên pháp lý với tư cách là luật sư nhà nước.
Bổ sung trong pháp luật tố tụng về chế định người bào chữa, bảo đảm cho Trợ giúp viên pháp lý có thể tham gia tố tụng với tư cách là một chủ thể độc lập như một luật sư mà không phải chỉ ở tư cách người đại diện hợp pháp. Vị trí, khái niệm Trợ giúp viên pháp lý trong hệ thống các chức danh tư pháp nói chung cũng cần được làm rò. Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cho Trợ giúp viên pháp lý cần tương ứng với chức danh. Thực tiễn tham gia tố tụng hiện nay cho thấy cần chuyển đổi chức danh Trợ giúp viên pháp lý thành luật sư công (luật sư nhà nước), bảo đảm bình đẳng về quyền và nghĩa vụ như luật sư hành nghề tự do. Từ đó, xác định vị trí pháp lý, tiêu chuẩn, quyền hạn của luật sư công thực hiện trợ giúp pháp lý ngang bằng luật sư hành nghề tự do.
- Hoàn thiện thể chế về trợ giúp pháp lý theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý nhằm khuyến khích, huy động các tổ chức
đoàn thể xã hội, cơ quan, tổ chức, cá nhân, các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, cơ quan báo chí truyền thông tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý và hỗ trợ phát triển hoạt động này. Nghiên cứu, xây dựng Đề án huy động các nguồn lực xã hội tham gia trợ giúp pháp lý nhằm hình thành hội nghề nghiệp về trợ giúp pháp lý để tham gia nghiên cứu, xây dựng, đề xuất chính sách pháp luật về trợ giúp pháp lý, bồi dưỡng kỹ năng và nâng cao đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp đồng thời tham gia phản biện xã hội các chính sách về pháp luật trợ giúp pháp lý.
Pháp luật về trợ giúp pháp lý cần bổ sung thêm các nhóm đối tượng yếu thế mới và người Việt Nam ở nước ngoài, diện đối tượng được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Bảo đảm sự hài hòa giữa pháp luật về trợ giúp pháp lý của Việt Nam với pháp luật trợ giúp pháp lý của các nước trong khu vực.
- Trên cơ sở kết quả sơ kết 03 năm thực hiện Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi các quy định của Bộ tiêu chuẩn theo hướng cụ thể như sau:
i) Phân định và thể hiện rò vai trò của Cục trợ giúp pháp lý, của Sở Tư pháp và các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước trong việc quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý và trách nhiệm của các cơ quan này trong việc đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý;
ii) Xây dựng cơ chế đánh giá chất lượng phù hợp với chức năng của đơn vị và năng lực bộ máy của Cục trợ giúp pháp lý theo Quyết định số 3425/QĐ-BTP ngày 25/11/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp với chức năng của cơ quan quản lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý; phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và năng lực bộ máy của Trung tâm theo lộ trình phát triển trên cơ sở Quyết định số 792/QĐ-TTg ngày 23/6/2008 của thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án "Quy hoạch mạng lưới Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008 - 2010, định hướng đến năm 2015".