Thứ tư, các NHTM phải thường xuyên xây dựng các báo cáo đánh giá về tình hình hoạt động kinh doanh của các đối tác chiến lược, khách hàng chủ đạo, các đối thủ cạnh tranh để làm căn cứ cho việc thực hiện các giao dịch kinh doanh ngoại hối tránh rủi ro trong thanh toán.
Thứ năm, xây dựng quy trình kinh doanh ngoại hối bài bản, cho phép quản lý rủi ro trong các giao dịch kinh doanh ngoại tệ.
Thứ sáu, các NHTM cần xây dựng hệ thống các hạn mức và các báo cáo phân tích ngoại hối như hạn mức giao trong ngày, hạn chức trạng thái qua đêm, hạn mức đối với các trạng thái ứng với các kỳ hạn 1 tuần, 2 tuần... 1 tháng, 2 tháng, hạn mức giao dịch của khách hàng, hạn mức điểm dừng lỗ… nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng.
1.2. Những nhân tố
bên trong
ảnh hưởng đến kết quả
Có thể bạn quan tâm!
- Các biện pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu khẩu Việt Nam, Phòng giao dịch Nguyễn Thái Học - 2
- Các Nghiệp Vụ Kinh Doanh Ngoại Tệ Của Ngân Hàng Thương Mại
- Các Biện Pháp Quản Lí Rủi Ro Trong Hoạt Động Kinh Doanh Ngoại Tệ
- Các Biện Pháp Đẩy Mạnh Hoạt Động Kinh Doanh Ngoại Tệ
- Những Thuận Lợi Và Khó Khăn Cho Hoạt Động Kinh Doanh Ngoại Tệ Tại
- Nguồn Mua Và Bán Ngoại Tệ Tại Phòng Giao Dịch
Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.
hoạt động kinh
doanh ngoại tệ của NHTM tại Việt Nam
Kết
quả
hoạt động kinh doanh ngoại tệ
của mỗi ngân hàng
được đo
lường khác nhau, phụ thuộc vào quy mô ngân hàng, lĩnh vực hoạt động, khả năng tài chính của ngân hàng ...Qua nghiên cứu, tổng hợp, để đánh giá hiệu quả hoạt động KDNT của NHTM, tác giả xin trình bày một số nhân tố bên trong theo tiêu chí định lượng và định tính như sau:
Theo tiêu chí định lượng:
1.2.1. Doanh số mua bán ngoại tệ
Doanh số mua bán ngoại tệ (MBNT) của một Ngân hàng thương mại
trong một thời kỳ được tính bằng tổng doanh số ngoại tệ mua vào và bán ra với khách hàng.
Doanh số MBNT = Doanh số mua + doanh số bán (ngoại tệ)
Hiện nay, khi thị trường ngoại hối phát triển, các nhà đầu tư có nhiều sự lựa chọn, đồng nghĩa với việc cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt, nếu ngân hàng mở rộng chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán (spread) thì sẽ không hấp dẫn khách hàng, dẫn đến doanh số mua bán ngoại tệ thấp. Do đó, một ngân hàng muốn tăng lợi nhuận, các ngân hàng thường có xu hướng thu hẹp spread nhằm tăng doanh số mua bán ngoại tệ của mình.
Trên thị trường ngoại hối có ba phương pháp cơ bản để thu lãi. Ví dụ, trên thị trường giao ngay, đó là:
Tạo trạng thái ngoại hối: Nhà kinh doanh có thể tạo trạng thái ngoại hối bằng cách mua bán một đồng tiền nào đó, chờ cho tỷ giá biến động sau đó cân bằng trạng thái ngoại hối và thu lãi.
Kinh doanh chênh lệch tỷ giá: là việc tại cùng một thời điểm mua một đồng tiền ở nơi có giá thấp và bán lại đồng tiền này ở nơi có giá trị cao hơn để ăn chênh lệch tỷ giá.
Kinh doanh chênh lệch tỷ giá mua vào bán ra: Do tỷ giá mua vào bao giờ cũng thấp hơn tỷ giá bán ra nên chênh lệch tỷ giá mua bán chính là thu nhập của ngân hàng. Ta có công thức tính như sau:
Lãi KDNT = Doanh số MBNT * spread
Trong đó: Spread = Tỷ giá bán tỷ giá mua
1.2.2. Thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Thu nhập hay lãi từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ là một yếu tố quan trọng để đánh giá kết quả kinh doanh ngoại tệ của một NHTM. Tuy nhiên, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ cần dựa vào chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại trên tổng thu nhập của NHTM đó. Vì, một ngân hàng có quy mô vốn nhỏ, thu nhập từ kinh doanh ngoại tệ thấp hơn nhưng sẽ được đánh giá hiệu quả cao hơn nếu thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại trên tổng thu nhập cao.
Đối với các ngân hàng lớn (đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài) có xu hướng giảm dần các nghiệp vụ truyền thống như tín dụng hay huy động vốn; thay vào đó là phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại, trong đó thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ chiếm tỷ trọng rất lớn, thường trên 40%.
Theo tiêu chí định tính:
1.2.3. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Như đã đề cập trong phần trên, hoạt động KDNT chịu rủi ro khá nhiều đòi hỏi khi tham gia thị trường cần sự nhanh nhạy và chính xác. Một số rủi ro có thể gặp phải là: rủi ro tỷ giá, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh toán, rủi ro trong hồ sơ mua
bán ngoại tệ hay rủi ro khi hạch toán…Trong đó, rủi ro tỷ giá được lưu tâm nhất bởi con người không thể điều tiết được mà chỉ có thể áp dụng các công cụ để phòng ngừa.
1.2.4. Khả ngân hàng
năng hỗ
trợ
của nghiệp vụ
KDNT tới các nghiệp vụ
khác của
Thương mại quốc tế phát triển là tiền đề và động lực thúc đẩy sự phát triển của hoạt động KDNT. Vì vậy, hiệu quả của nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ không chỉ thể hiện từ nội tại mà còn thể hiện ở việc hoạt động này hỗ trợ ra sao
đối với các hoạt động khác như huy động vốn, tín dụng, thanh toán quốc tế,
thanh toán thẻ, giao dịch kiều hối các nghiệp vụ ngày càng phát triển gia tăng lợi nhuận cũng như đa dạng sản phẩm cho ngân hàng.
1.2.5. Sự hài lòng của khách hàng
Kinh doanh ngoại tệ thực chất cũng là một dịch vụ mà NHTM cung cấp
cho khách hàng để đảm bảo việc thực hiện thanh toán các hợp đồng ngoại
thương một cách thuận lợi, nhằm thỏa mãn tối đa các nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Bất kỳ khách hàng nào khi đến ngân hàng để thực hiện giao dịch cũng đều kỳ vọng sẽ được ngân hàng đáp ứng được yêu cầu của mình. Các yêu cầu của khách hàng là rất đa dạng và khác nhau. Nhu cầu đó bao gồm việc gửi vốn, vay trả nợ thuận tiện, việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng, các thông tin mà ngân hàng đó mang lại... Như vậy, một khách hàng đến giao dịch mua bán ngoại tệ với ngân hàng không phải chỉ vì giá ngoại tệ ở đó thấp hơn ngân hàng khác, mà còn xem ngân hàng đó có thỏa mãn được mọi nhu cầu hợp lý của mình hay không.
1.2.6. Nguồn nhân lực cho hoạt động KDNT
Vấn đề nhân sự là một trong những yếu tố quan trọng quyết định kết quả của hoạt động kinh doanh. Nhân viên có trình độ chuyên môn cùng với kiểm soát viên có kinh nghiệm sẽ giúp cho hoạt động được tốt hơn. Ngoài ra, chất lượng nhân viên phục vụ khách hàng như thế nào cũng ảnh hưởng đến hoạt động này.
1.2.7. Chất lượng công nghệ thông tin
Cũng như vấn đề nhân sự, chất lượng công nghệ thông tin cũng là một yếu tố hết sức quan trọng. Công nghệ cần cập nhật thường xuyên các ứng dụng phần mềm mới nhất để giao dịch và làm việc phục vụ khách hàng. Cơ sở vật chất phải được trang bị đầy đủ với các thiết bị hiện đại.
1.3. Những nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến kết quả hoạt động KDNT của NHTM tại Việt Nam
1.3.1. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
Thực tế cho thấy, các nước có nền kinh tế phát triển thì hoạt động Kinh
doanh ngoại tệ
cũng phát triển. Sự
phát triển này nhằm đáp
ứng các nhu cầu
thương mại
Quốc tế
đa dạng của nền kinh tế
đó. Còn
ở các nước đang phát
triển, hoạt động KDNT đơn giản hơn, do nhu cầu giao dịch ngoại tệ không lớn, trình độ các thành viên tham gia thị trường cũng hạn chế.
Trước Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), nền kinh tế nước ta là nền kinh tế
tự cung tự cấp, khép kín và chia cắt giữa các địa phương trong nước, buôn bán chủ yếu diễn ra với các nước XHCN, kim ngạch xuất khẩu thấp, đầu tư nước ngoài bị hạn chế, NHNN cố định tỷ giá… Tất cả những nhân tố trên có tác động tiêu cực đến kinh tế đối ngoại của Việt Nam, kìm hãm tốc độ phát triển, làm giảm sút hiệu quả việc giao thương Quốc tế. Trong điều kiện như vậy, mọi yếu tố như cung cầu ngoại tệ, các yếu tố tác động đến tỷ giá, sự biến động của tỷ giá và sự tồn tại của thị trường hối đoái là không cần thiết đối với các doanh nghiệp trong nước cũng như trong quan hệ kinh tế với nước ngoài. Vì vậy, hoạt động KDNT của các NHTM không có môi trường, điều kiện để phát triển mở rộng.
Trong quá trình đổi mới hiện nay, việc phát triển nền kinh tế thị trường, đổi mới các chính sách kinh tế ngoại thương, ngoại hối, từ bỏ chế độ tỷ giá cố định là xu thế tất yếu khi nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, góp phần không nhỏ thúc đẩy hoạt động KDNT; từ đó phát triển hơn nữa nghiệp vụ này trong các NHTM.
Những yếu tố cơ bản trên đây có mối quan hệ chặt chẽ, đan xen nhau và cùng tác động tới hoạt động KDNT của các NHTM. Môi trường kinh tế xã hội phát triển ổn định là cơ sở đẩy mạnh hoạt động đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu và lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp; đồng thời tạo tiền đề thúc đẩy thị trường ngoại hối hình
thành và phát triển, giúp các NHTM mở rộng và đa dạng hóa các nghiệp vụ
KDNT. Hệ
thống các cơ
chế
điều hành tỷ
giá và lãi suất của Ngân hàng nhà
nước (NHNN) chính là các công cụ có tính chất pháp lý điều tiết các hoạt động kinh doanh trên thị trường. Do đó, cần tiến hành phân tích tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng trên cũng như phải biết vận dụng cơ chế của nhà nước, chủ động nắm bắt sự biến động của cung cầu ngoại tệ và tỷ giá hối đoái, nghiên cứu thực
trạng hoạt động của thị trường tài chính, ngoại hối trước khi quyết định thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh để vừa phục vụ được khách hàng, vừa đảm bảo có lãi trong KDNT.
1.3.2. Chính sách quản lý ngoại hối của Nhà nước
Nội dung của chính sách này là thực hiện tự do hóa ngoại thương và ngoại hối với cơ chế thị trường. Chính phủ nắm vai trò điều tiết, quản lý ở tầm vĩ mô, không hạn chế hay quản lý gắt gao ngoại hối cũng như ngoại thương, hoàn toàn
xóa bỏ
hàng rào thương mại. Với cơ
chế
quản lý ngoại hối này, hoạt động
KDNT của các NHTM có cơ hội để phát triển với tốc độ cao, mở rộng cả về quy mô, số lượng và loại hình. Tuy nhiên, sự đa dạng và bình đẳng của các NHTM tham gia vào thị trường hối đoái đã gây sức ép, tăng sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường.
Như vậy, chính sách quản lý ngoại hối có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của thị trường ngoại hối và hoạt động KDNT của ngân hàng. Việc áp dụng chế độ quản lý ngoại hối chặt chẽ đến mức nào phụ thuộc vào điều kiện của từng nước. Một chính sách quản lý ngoại hối đúng đắn và phù hợp trong từng thời kỳ sẽ đóng vai trò là đòn bẩy khuyến khích phát triển ngoại thương, hợp tác kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, qua đó thúc đẩy hoạt động KDNT của các NHTM.
1.3.3. Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái của Ngân hàng Nhà nước
Tỷ giá hối đoái, mặc dù xuất hiện cùng với thị trường ngoại hối nhưng cho đến nay vẫn còn là vấn đề hết sức phức tạp. Sự phức tạp được thể hiện trên
hai phương diện: Một là ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài (tình hình kinh tế, thị trường tài chính quốc tế và chính sách can thiệp của các nước...) và các yếu tố này không nằm trong tầm khống chế của một quốc gia. Hai là sự tương tác đa chiều của các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ ở mỗi nước. Hình thức biểu hiện tổng hợp về sự tương tác từ hai phương diện trên chính là quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Nói chung có rất nhiều yếu tố tác động lên tỷ giá hối đoái, một số yếu tố cơ bản là:
Sức mua của các đơn vị tiền tệ và tốc độ lạm phát ở các nước hữu quan.
Trạng thái cán cân thanh toán quốc tế ảnh hưởng trực tiếp đến cung cầu ngoại tệ thông qua đó tác động lên tỷ giá.
Chênh lệch lãi suất giữa các nước, giữa thị trường tín dụng nội địa và quốc tế.
Một số các nhân tố tác động lên cung cầu ngoại tệ qua đó ảnh hưởng đến tỷ giá như các cú sốc chính trị, thói quen tâm lý, các nhân tố xã hội...
1.3.4. Trạng thái ngoại tệ
Đối với Ngân hàng thương mại, trạng thái ngoại hối (Foreign Exchange
Position) của mỗi ngoại tệ là chênh lệch giữa tổng tài sản có và tổng tài sản nợ (gồm cả nội bảng và ngoại bảng) của ngoại tệ đó tại một thời điểm nhất định
Các giao dịch liên quan đến ngoại tệ được chia làm hai nhóm: Nhóm làm