Một Số Khái Niệm Công Cụ Có Liên Quan Đến Đề Tài

Matxcơva,1984), Bôn - đư - rép N.I. đã trình bày những phương pháp cơ bản về cách thức thực hiện công tác chủ nhiệm lớp ở các trường phổ thông.

Theo quan điểm của UNESCO đã cho rằng GD tiểu học là giai đoạn mà thế hệ trẻ lựa chọn cho mình những giá trị cần thiết cho cuộc sống cũng như con đường chuẩn bị bước vào hoạt động nghề nghiệp và cuộc sống sau này. Đặc biệt, cuốn tài liệu tập huấn kĩ năng cơ bản trong tham vấn (Unicef 2005) cũng đưa ra những cách thức tham vấn cho HS lứa tuổi thanh niên. Như vậy, người GV cần tổ chức các hoạt động khác nhau để HS có thể tham gia được dễ dàng và học được rất nhiều thứ từ đó.

Từ định hướng trên, các nước phát triển đã chỉ ra những nội dung giáo dục cho học sinh tiểu học mà có liên quan đến công tác chủ nhiệm lớp. Những nội dung giáo dục học sinh như: giáo dục kĩ năng sống, giáo dục những giá trị sống, giáo dục hoạt động trải nghiệm thực tế…

Ở Việt Nam, từ trước đến nay đã có nhiều tác giả cũng đã quan tâm nghiên cứu vấn đề công tác chủ nhiệm lớp: Trong tác phẩm “một số vấn đề về công tác chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Kim Dung đã đề cập đến thực trạng công tác chủ nhiệm lớp ở các trường phổ thông hiện nay. Từ thực trạng đó, tác giả thể hiện quan điểm của mình về nội dung quan trọng trong đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo sinh sư phạm, cần thiết phải trang bị kỹ năng làm công tác chủ nhiệm lớp.

Tác giả Nguyễn Thanh Bình với công trình “Công tác chủ nhiệm lớp ở các trường phổ thông”. Trong công trình này tác giả đã chỉ rõ, vai trò cũng như nội dung công tác của người GVCN lớp ở các nhà trường phổ thông. Nhưng yêu cầu về phẩm chất, năng lực của người giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp.

Ngoài ra còn có nhiều nhà khoa học cũng quan tâm đến công tác chủ nhiệm lớp với các công trình như: Hà Nhật Thăng, Nguyễn Dục Quang với các tác phẩm “Công tác GVCN ở các trường phổ thông”, “Những tình huống giáo dục học sinh của người GVCN”.

Đề cập đến công tác chủ nhiệm lớp cũng đã có những công trình, đề tài

nghiên cứu, đó là: “Một số biện pháp tăng cường quản lý của Hiệu trưởng đối với công tác chủ nhiệm lớp trong các trường THPT tỉnh Bắc Ninh” luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Khắc Hiền (ĐHSP Hà Nội. 2005); “Một số giải pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông Dân tộc nội trú Trung ương” luận văn Thạc sĩ của Lê Phú Thắng ĐHSP Vinh. 2010; “Trí tuệ xúc cảm của giáo viên chủ nhiệm lớp THCS” Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị Dung (Viện Khoa học Giáo dục. 2008); “Phương pháp công tác của giáo viên chủ nhiệm trường THPT” của Hà Nhật Thăng (NXB ĐHQG Hà Nội. 2000) và đặc biệt tại Hội thảo bàn về công tác GVCN ở trường phổ thông do Bộ GD & ĐT tổ chức vào tháng 8/2010 có nhiều bài viết của các nhà khoa học và các nhà QLGD có giá trị, đó là: “Nâng cao chất lượng công tác giáo viên chủ nhiệm lớp đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay” của PGS. TS Bùi Văn Quân; “Một vài điểm mới trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông” của PGS. TS Hà Nhật Thăng; “Phương hướng nâng cao năng lực giáo dục cho đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông” của PGS. TS Nguyễn Dục Quang; “Giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông quan niệm và một số kiến giải” của PGS.TS Đặng Quốc Bảo; “Sứ mệnh và vai trò của giáo viên chủ nhiệm” của PGS.TS Mạc Văn Trang; “Nâng cao năng lực làm công tác chủ nhiệm cho giáo viên” của PGS.TS Nguyễn Văn Khôi; “Giáo viên chủ nhiệm với công tác giáo dục đạo đức cho học sinh” của Hoàng Thị Nga... (Kỉ yếu Hội thảo của Bộ Giáo dục & Đào tạo, tháng 8 - 2010).v.v...

Đã có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu về xây dựng các giải pháp bồi dưỡng nhà trường nói chung và công tác chủ nhiệm lớp bồi dưỡng công tác chủ nhiệm lớp ở các trường phổ thông nói riêng, dưới các hình thức khác nhau, tuy nhiên các công trình nghiên cứu mới chỉ tập trung vào chỉ ra các yêu cầu năng lực cần có của GVCN, vào các biện pháp quản lí việc bồi dưỡng của GVCN nói chung, chưa cập nhật được nhưng thay đổi trong môi trường giáo dục hiện nay, chưa đưa ra được các giải pháp giúp công tác quản lý, giáo viên chủ nhiệm lớp

khắc phục được những khó khăn mới nảy sinh. Như các luận văn: “Biện pháp bồi dưỡng năng lực chủ nhiệm lớp cho giáo viên các trường Tiểu học thành phố Hạ Long”, “Biện pháp quản lí bồi dưỡng công tác chủ nhiệm lớp cho giáo viên trường THPT Yên Hòa, Hà Nội”, “Biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở các trường THPT thành phố Lào cai”, “Quản lý công tác chủ nhiệm lớp của hiệu trưởng các trường THCS quận Hoàn Kiếm thành phố Hà Nội”, “Biện pháp quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp của hiệu trưởng trường THPT tỉnh Yên Bái”, “Một số giải pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông dân tộc nội trú trung ương”. Vì vậy, bồi dưỡng năng lực làm công tác chủ nhiệm lớp trong môi trường giáo dục có mô hình bán trú tiểu học, việc chỉ đạo thực hiện công tác bồi dưỡng, tổ chức kiểm tra đánh giá kết quả công tác bồi dưỡng chưa thực sự được quan tâm đây là nguyên nhân chính khiến công tác chủ nhiệm lớp của nhiều giáo viên trong giai đoạn hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu. Do vậy việc nghiên cứu các biện pháp “Bồi dưỡng năng lực chủ nhiệm cho giáo viên ở các trường phổ thông dân tộc bán trú tiểu trên địa bàn huyện Nậm Pồ” có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn trong bồi dưỡng năng lực chủ nhiệm cho giáo viên ở các trường PTDTBT tiểu học huyện Nậm Pồ tỉnh Điện Biên, góp phần đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển giáo dục đào tạo.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

1.2. Một số khái niệm công cụ có liên quan đến đề tài

1.2.1. Bồi dưỡng

Bồi dưỡng năng lực chủ nhiệm lớp cho giáo viên ở các trường phổ thông dân tộc bán trú tiểu học trên địa bàn huyện Nậm Pồ - tỉnh Điện Biên - 3

- Theo từ điển Tiếng Việt: Bồi dưỡng là "làm tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất" [20].

- UNESCO định nghĩa: “BD với ý nghĩa nâng cao nghề nghiệp. Quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp”.

- Khái niệm Bồi dưỡng được dùng với nghĩa là cập nhật, bổ túc thêm một số kiến thức, kỹ năng cần thiết, nâng cao hiểu biết sau khi đã được đào tạo cơ

bản, cung cấp thêm những kiến thức chuyên ngành, mang tính ứng dụng... Như vậy, đối với nghiệp vụ tổ chức, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng, là khâu không thể thiếu trong toàn bộ quy trình xây dựng và thực hiện tổ chức.

- Trong đề tài khoa học tác giả Nguyễn Minh Đường quan niệm: "Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật hoá kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, bổ túc nghề nghiệp, đào tạo thêm hoặc củng cố các kĩ năng nghề nghiệp theo chuyên đề. Các hoạt động này nhằm tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội để củng cố mở mang một cách có hệ thống những tri thức, kĩ năng, chuyên môn nghiệp vụ sẵn có để lao động nghề nghiệp một cách có hiệu quả hơn và thường được xác định bằng một chứng chỉ..."

- Theo xu hướng phát triển giáo dục là: Giáo dục thường xuyên, học tập suốt đời” thì việc ĐT, BD và ĐT lại là quá trình thống nhất. BD và ĐT là sự tiếp nối quá trình ĐT, BD và ĐT lại tạo ra tiền đề về tiêu chuẩn cho quá trình ĐT chính quy ở bậc cao hơn về trình độ chuyên môn trong lĩnh vực cụ thể.

Từ các quan niệm nêu trên về khái niệm của bồi dưỡng, có thể thấy:

+ Chủ thể BD là những người đã được đào tạo và có trình độ chuyên môn nhất định.

+ BD thực chất là quá trình bổ sung tri thức, kỹ năng để nâng cao trình độ trong lĩnh vực hoạt động chuyên môn nào đó nhằm đáp ứng yêu cầu mới của chuyên môn nghiệp vụ.

+ Mục đích BD nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực chuyên môn để người lao động có cơ hội củng cố, mở mang nâng cao hệ thống kiến thức, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ có sẵn nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc đang làm.

Như vây, BD thực chất là bổ sung, bồi đắp những thiếu hụt về tri thức, cập nhật cái mới trên cơ sở “nuôi dưỡng” những cái đã có để mở mang, làm cho chúng phát triển thêm, có giá trị làm tăng hệ thống những tri thức, kỹ năng, nghề

nghiệp, làm giàu vốn hiểu biết, nâng cao hiệu quả lao động. Chính vì thế BD còn được gọi là đào tạo lại.

Dưới góc độ quản lý, trong khuôn khổ đề tài này chúng tôi quan niệm Bồi dưỡng là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, phối hợp và kiểm tra nhằm tác động có định hướng của nhà quản lý (tổ chức bồi dưỡng) lên đối tượng được bồi dưỡng nhằm vận dụng những nguyên lý, phương pháp chung nhất của khoa học quản lý bào lĩnh vực tổ chức bồi dưỡng nhằm đạt được mục tiêu của quá trình bổ sung, bồi đắp những thiếu hụt về tri thức, cập nhật cái mới trên cơ sở “nuôi dưỡng” những cái đã có để mở mang, làm cho chúng phát triển thêm, có giá trị làm tăng hệ thống những tri thức, kỹ năng, nghề nghiệp, làm giàu vốn hiểu biết, nâng cao hiệu quả lao động.

1.2.2. Năng lực chủ nhiệm lớp trong mô hình phổ thông dân tộc bán trú tiểu học của giáo viên chủ nhiệm lớp

1.2.2.1. Trường phổ thông dân tộc bán trú tiểu học

Trường phổ thông dân tộc bán trú là trường chuyên biệt, được nhà nước thành lập cho con em dân tộc thiểu số, con em các gia đình định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nhằm góp phần đào tạo cán bộ cho các vùng này. Trường PTDTBT có số lượng học sinh bán trú theo quy định.

- Học sinh bán trú là học sinh ở vùng có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn, được cấp có thẩm quyền cho phép ở lại trường để học tập trong tuần, do không thể đi đến trường và trở về nhà.

- Trường PTDTBT thực hiện các nhiệm vụ theo quy định tại điều lệ trường phổ thông và các nhiệm vụ sau:

Hằng năm đề xuất chỉ tiêu, lập kế hoạch và tham gia xét duyệt học sinh bán trú

Giáo dục học sinh về chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.

Tổ chức các hoạt động dạy học, giáo dục, lao động, văn hóa thể thao và tổ chức nuôi dưỡng phù hợp với học sinh bán trú.

- Vị trí, vai trò, nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp:

Dựa vào tình hình thực tế, vạch kế hoạch giúp lớp tổ chức thực hiện chương trình đào tạo (học tập, rèn luyện trong từng tuần, từng tháng, học kỳ và năm học.

Cùng cán bộ lớp theo dõi, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của lớp chủ nhiệm theo từng tháng, học kỳ và năm học; đồng thời báo cáo kết quả đó với nhà trường vào cuối mỗi tháng.

Liên hệ với gia đình học sinh để phối hợp giáo dục học sinh khi cần thiết.

Ghi nhận xét, xác nhận các vấn đề thuộc về quản lý hành chính Nhà nước trong phạm vi hoạt động của lớp (như các đơn từ của học sinh, các báo cáo của lớp...).

Kết thúc thời gian năm học, chủ nhiệm lớp phải bàn giao hồ sơ công tác chủ nhiệm lớp cho cán bộ văn phòng và bàn giao tình hình lớp cho giáo viên chủ nhiệm mới.

Phát hiện, bồi dưỡng và cử đội ngũ cán bộ lớp và phân công nhiệm vụ nhằm giúp các em tổ chức thực hiện tốt mọi hoạt động của lớp, của trường.

Định hướng, tư vấn và giúp các em tổ chức thực hiện các mặt hoạt động của lớp.

Tổng hợp tình hình, đề xuất các giải pháp để tham mưu cho Trường về công tác giáo dục, rèn luyện của học sinh.

Nắm chắc tư tưởng, tinh thần thái độ và kết quả học tập, rèn luyện của học sinh, phối hợp gia đình và đoàn thể để giúp đỡ, cảm hóa học sinh trong rèn luyện để trở thành người tốt cho xã hội.

Được mời dự họp hoặc là thành viên hội đồng giải quyết các vấn đề về học sinh của lớp mình phụ trách.

Đực liên hệ với các giáo viên bộ môn, Tổ trưởng tổ chuyên môn, Ban giám hiệu, Đoàn thanh niên, Ban đại diện CMHS để phản ánh tình hình giảng dạy của giáo viên, tình hình học tập, rèn luyện của học sinh và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho học sinh lớp mình phụ trách.

Được quyền cho học sinh nghỉ học (khi học sinh có đơn với lí do chính đáng) một ngày trong phạm vi gần trường (25km).

Được gọi học sinh cá biệt đến nơi làm việc để giáo dục học sinh.

Được mời phụ huynh học sinh đến trường để phối hợp giáo dục khi cần thiết. Giáo viên chủ nhiệm là người chủ chốt của nhà trường làm công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh.

Ngoài các nhiệm vụ như giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm còn có những chức năng nhiệm vụ sau đây:

1) Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ chức giáo dục sát với đối tượng nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của từng học sinh và của cả lớp.

2) Xây dựng kế hoạch các hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục đảm bảo tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học sinh, với hoàn cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của từng học sinh.

3) Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng. Tham gia hướng dẫn hoạt động tập thể, hoạt động giáo dục và rèn luyện học sinh do nhà trường tổ chức.

4) Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, các giáo viên bộ môn, Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có liên quan trong việc hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp của học sinh lớp mình chủ nhiệm và góp phần huy động các nguồn lực trong cộng đồng phát triển nhà trường.

5) Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học, đề nghị khen thưởng và kỷ luật học sinh, đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hanh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp, hoàn chỉnh việc ghi sổ điểm và học bạ học sinh.

6) Báo cáo thường kì hoặc đột xuất vè tình hình của lớp với Hiệu trưởng hoặc phó hiệu trưởng khi được ủy quyền.

7) Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp, thường xuyên hướng dẫn học sinh tạo dựng môi trường thân thiện trong mỗi lớp học, là thành viên tích cực trong phong trào thi đua xây dựng "Trường học thân thiện - Học sinh tích cực ".

Giáo viên chủ nhiệm có một vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ giáo dục của nhà trường. Vì vậy đề nghị các giáo viên nêu cao tinh thần trách nhiệm, với mục đích "Tất cả vì học sinh thân yêu "tích cực tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, góp phần giáo dục nhân cách học sinh có hiệu quả và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.

Mô hình các trường phổ thông dân tộc bán trú nói chung và mô hình các trường phổ thông dân tộc bán trú tiểu học nói riêng là mô hình trường học tổ chức cho học sinh học và ăn, ở tại trường tạo điều kiện để các em đến trường học tập, được sinh hoạt được vui chơi. Tại đây mái trường thực sự đã trở thành ngôi nhà thứ hai của các em. Không còn khoảng cách giữa gia đình các bạn có điều kiện và gia đình không có điều kiện. Không còn khoảng cách giữa dân tộc này với dân tộc kia. Một môi trương thật sự hòa đồng, một môi trường mà nhiều em đã từng ao ước giờ mới trở thành hiện thực. Công tác bán trú dân nuôi ở các trường phổ thông dân tộc bán trú tiểu học có ý nghĩa thật to lớn. Nó góp phần đào tạo lực lượng đặc biệt của địa phương - lao động có trí tuệ ở vùng khó khăn.

1.2.2.2. Năng lực chủ nhiệm lớp trong môi trường giáo dục bán trú.

Năng lực là tổ hợp các đặc điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao.

Các năng lực hình thành trên cơ sở của các tư chất tự nhiên của cá nhân. Tuy nhiên, năng lực của con người không phải do tự nhiên mà có, phần lớn do công tác, do luyện tập mới có thể hình thành.

Năng lực chủ nhiệm lớp của giáo viên dân tộc bán trú tiểu học là tổ hợp các đặc điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/02/2023