So Sánh Giữa Biện Pháp Tịch Thu Vật, Tiền Trực Tiếp Liên Quan Đến Tội Phạm Trong Lhs Việt Nam Và Hình Phạt Tịch Thu Trong Lhs Nhật Bản

thu tài sản trong LHS Thụy Điển



Tiêu chí so sánh

Biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm trong

LHS Việt Nam

Biện pháp

tịch thu tài sản trong LHS Thụy Điển

1. Thẩm

Do Cơ quan điều tra,

Viện

Chỉ do Tòa án xét xử vụ

án.


Tiêu chí so sánh

Biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm trong

LHS Việt Nam

Biện pháp

tịch thu tài sản trong LHS Thụy Điển

1. Thẩm quyền áp dụng

Do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng, tương ướng với từng giai đoạn

TTHS.

Chỉ do Tòa án xét xử vụ án hình sự cụ thể tương ứng mới có thẩm quyền áp dụng.

2. Đối

Chỉ tịch thu vật đã sử

Ngoài vật đã sử dụng

tượng

dụng vào việc phạm tội,

vào việc phạm tội, sản

tịch thu

sản phẩm của hành vi

phẩm của hành vi phạm


phạm tội, đối tượng của

tội, đối tượng của tội


tội phạm. Không quy

phạm, còn tịch thu cả


định việc tịch thu vật

vật được dự định sử


được dự định sử dụng

dụng làm vật trợ giúp


làm vật trợ giúp hoặc

hoặc dụng cụ trong một


dụng cụ trong một tội

tội phạm tài sản và tội


phạm tài sản và tội xâm

xâm phạm tính mạng,


phạm tính mạng, sức

sức khỏe.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm trong luật hình sự Việt Nam - 7

khỏe.



1.4.3. Luật hình sự Nhật Bản

BLHS Nhật Bản được công bố ngày 24 tháng 04 năm 1907 và được ban hành ngày 01 tháng 10 năm 1908. Đây là một trong những bộ pháp điển hóa cơ bản được cấu thành từ sáu văn bản luật. Tuy nhiên, không phải tất cả các tội phạm và hình phạt đều được quy định trong bộ luật này mà có những loại tội danh được quy định riêng trong những bộ luật đặc biệt khác. Bộ luật này đã được sửa đổi và bổ sung ngày 24 tháng 06 năm 2011.

BLHS Nhật Bản năm 2011 không quy định chế định biện pháp tư pháp. Nhưng về bản chất, hình phạt bổ sung tịch thu trong LHS Nhật Bản có nhiều điểm tương đồng với biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm trong LHS Việt Nam.

Hình phạt tịch thu tài sản của LHS Nhật Bản được quy định trong Điều 19 BLHS Nhật Bản năm 2011.

* Về tính chất pháp lý:

Theo điều 9 BLHS Nhật Bản 2011 thì hình phạt tịch thu là hình phạt bổ sung duy nhất trong hệ thống hình phạt của LHS Nhật Bản. Hình phạt này không áp dụng độc lập mà bắt buộc áp dụng kèm theo hình phạt chính.

* Về đối tượng tịch thu:

Khoản I Điều 19 BLHS Nhật Bản 2011 quy định những đối tượng có thể tịch thu gồm có:

- Vật là công cụ thực hiện hành vi phạm tội.

- Vật được cung cấp hoặc sẽ được cung cấp cho người có hành vi phạm tội.

- Vật phát sinh do hành vi phạm tội, vật nhờ đó mà có được hoặc có được với tính chất thù lao của hành vi phạm tội.

- Vật nhận được do quy đổi với vật là công cụ thực hiện hành vi phạm tội, vật được cung cấp hoặc sẽ được cung cấp cho người có hành vi phạm tội, vật phát sinh do hành vi phạm tội, vật nhờ đó mà có được hoặc có được với tính chất thù lao của hành vi phạm tội [5].

Những vật nêu trên thuộc sở hữu của người phạm tôi sẽ bị tịch thu theo Khoản I – Điều 19 BLHS Nhật Bản năm 2011. Vật mà thuộc sở hữu của người không phải là người phạm tội nhưng sau khi gây án mà người đó biết được về những vật đó thì cũng có thể bị tịch thu nếu người đó có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vật của mình vào việc thực hiện tội phạm (Khoản II – Điều 19 BLHS Nhật Bản năm 2011).

* Về nguyên tắc áp dụng:

Theo Điều 19-2 – BLHS Nhật Bản năm 2011, trong trường hợp không thể tịch thu hết một phần hoặc toàn bộ những vật phát sinh do hành vi phạm tội, vật nhờ đó mà có được hoặc có được với tính chất thù lao của hành vi phạm tội hay vật nhận được do quy đổi với vật là công cụ thực hiện hành vi phạm tội; vật được cung cấp hoặc sẽ được cung cấp cho người có hành vi phạm tội; vật phát sinh do hành vi phạm tội, vật nhờ đó mà có được hoặc có được với tính chất thù lao của hành vi phạm tội thi có thể truy thu số tiền đó.

* Về phạm vi áp dụng:

Điều 20 – BLHS Nhật Bản năm 2011 quy định như sau: “Tịch thu những vật liên quan đến tội phạm chỉ tương ứng

với hình phạt giam giữ hoặc hình phạt tiền mức nhẹ, nếu không có quy định đặc biệt thì không thể tịch thu được.

Tuy nhiên, việc tịch thu trong trường hợp tại khoản I-1 của điều 19 thì không hạn chế.”

Việc tịch thu vật được cung cấp hoặc sẽ được cung cấp cho người có hành vi phạm tội; vật phát sinh do hành vi phạm tội, vật nhờ đó mà có được hoặc có được với tính chất thù lao của hành vi phạm tội; vật nhận được do quy đổi với vật được cung cấp hoặc sẽ được cung cấp cho người có hành vi phạm tội; vật phát sinh do hành vi phạm tội, vật nhờ đó mà có được hoặc có được với tính chất thù lao của hành vi phạm tội chỉ áp dụng kèm với hình phạt giam giữ (Giam giữ từ trên 01 ngày đến 30 ngày trong trại giam) hoặc hình phạt tiền mức nhẹ (Từ 01 nghìn Yên đến 01 van Yên). Chỉ có một trường hợp đặc biệt được tịch thu kèm theo mọi hình phạt chính, đó là tịch thu của hối lộ do người phạm tội hoặc người thứ ba trong cuộc đã nhận, trong trường hợp không tịch thu được một phần hoặc toàn bộ của hối lộ thì truy thu giá ngạch tương đương (Theo Điều 197-5 BLHS Nhật Bản năm 2011).

Ngoại lệ, việc tịch thu vật là công cụ thực hiện hành vi phạm tội hay nhận được do quy đổi với vật là công cụ thực hiện hành vi phạm tội không có sự hạn chế áp dụng mà được áp dụng kèm theo mọi loại hình phạt chính.

Qua nghiên cứu, có thể thấy được những điểm giống nhau và khác nhau giữa hình phạt tịch thu của luật hình sự Nhật Bản và biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm của luật hình sự Việt Nam như sau:

* Giống nhau:

- Một là, đều là những biện pháp cưỡng chế về hình sự do LHS quy định, chỉ xuất hiện khi có sự việc phạm tội của cá nhân.

- Hai là, đều là biện pháp đánh vào tài sản, kinh tế của người phạm tội.

- Ba là, đều dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi nhất định đối với người bị áp dụng, đó là bị tước quyền sở hữu đối với tài sản.

- Bốn là, đều áp dụng trong mọi trường hợp, khi có vật trực tiếp liên quan đến tội phạm.

- Năm là, các tài sản tịch thu có thể là thuộc sở hữu của người phạm tội hoặc thuộc sở hữu của người khác hoặc là tài sản của Nhà nước.

- Sáu là, chỉ áp dụng theo trình tự, thủ tục do BLTTHS sự quy định.

* Khác nhau:

Bảng 1.6: So sánh giữa biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm trong LHS Việt Nam và hình phạt tịch thu trong LHS Nhật Bản


Biện pháp tịch thu vật,

Hình phạt

Tiêu chí

tiền trực tiếp liên quan

tịch thu trong LHS

so sánh

đến tội phạm trong

Nhật Bản


LHS Việt Nam


1. Tính

Tịch thu vật, tiền trực

Tịch thu là một hình

chất pháp

tiếp liên quan đến tội

phạt bổ sung.

phạm là một biện pháp



tư pháp.


2. Phạm vi

Đối với tất cả những

Chỉ áp dụng đối với

người tham gia tố tụng khi có căn cứ pháp lý do pháp luật hình sự quy định.

- Có thể được áp dụng độc lập, không bắt buộc phải áp dụng kèm

theo hình phạt.

người bị kết án nói riêng, trên cơ sở bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật.

- Không được áp dụng độc lập mà bắt buộc phải áp dụng kèm theo

hình phạt chính.

3. Điều kiện áp dụng

Áp dụng đối với mọi loại tội phạm, cả lỗi cố ý và vô ý.

Áp dụng với tội phạm có hình phạt giam giữ hoặc phạt tiền mức nhẹ, chỉ trừ trường hợp tịch thu vật là công cụ thực hiện hành vi phạm tội.

4. Hậu quả pháp lý

Người bị áp dụng biện

pháp này không bị coi là có án tích.

Người bị áp dụng hình

phạt này phải chịu án tích.

5. Thẩm quyền áp dụng

Do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng, tương ướng với từng giai đoạn tố

tụng hình sự.

Chỉ do Tòa án xét xử vụ án hình sự cụ thể tương ứng mới có thẩm quyền áp dụng.

6. Đối tượng tịch thu

Chỉ tịch thu vật đã sử dụng vào việc phạm tội, sản phẩm của hành

vi phạm tội, đối tượng

Ngoài đồ vật đã sử dụng vào việc phạm tội, sản phẩm của hành vi

phạm tội, đối tượng của

áp dụng

của tội phạm. Không quy định việc tịch thu vật sẽ được cung cấp cho người có hành vi

phạm tội.

tội phạm, còn tịch thu cả vật sẽ được cung cấp cho người có hành vi phạm tội.

7. Nguyên

Không quy định việc

Trong trường hợp

tắc áp

truy thu.

không thể tịch thu hết

dụng


một phần hoặc toàn bộ



những vật do phạm tội



mà có thì có thể truy



thu số tiền đó.


1.4.4. Nhận xét:

Qua nghiên cứu luật hình sự Việt Nam và luật hình sự một số nước (đã nêu) có quy định về biện pháp cưỡng chế hình sự có tính chất tịch thu tài sản có liên quan đến tội phạm cho phép tác giả luận văn có thể rút ra các nhận xét sau đây:

Một là, mặc dù tên gọi pháp lý có khác nhau nhưng về cơ bản quan niệm về việc tịch thu tài sản có liên quan đến tội phạm trong LHS Việt Nam và LHS các nước đã tiếp cận nghiên cứu là giống nhau. Cũng như LHS Việt Nam, pháp luật hình sự các nước cũng quy định biện pháp cưỡng chế hình sự có tính chất tịch thu tài sản có liên quan đến tội phạm là biện pháp đánh vào tài sản, kinh tế của đối tượng bị áp dụng. Các tài sản bị tịch thu là những tài sản có liên quan đến tội phạm, có thể là thuộc sở hữu của người phạm tội hoặc thuộc sở hữu của người khác hoặc là tài sản của Nhà nước.

- Hai là, LHS các nước đều quy định biện pháp cưỡng chế hình sự có tính chất tịch thu tài sản có liên quan đến tội phạm nhằm mục đích ngăn ngừa người phạm tội phạm tội mới, răn đe người khác không phạm tội và giáo dục toàn xã hội tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm.

- Ba là, do nhiều nguyên nhân mà quan niệm về việc tịch thu tài sản có liên quan đến tội phạm trong LHS các nước có nhiều điểm không giống nhau. Trong khi LHS Pháp, Thụy Điển và Nhật Bản, ngoài việc quy định tịch thu đối với vật được sử dụng vào việc phạm tội, vật là sản phầm của tội phạm và vật là đối tượng của tội phạm còn quy định tịch thu cả những vật được dự định để sử dụng vào việc phạm tội thì LHS Việt Nam lại không quy định việc tịch thu những vật đó . Như vậy là đối tượng tịch thu theo LHS Việt Nam có phạm vi hẹp hơn, mang tính răn đe và phòng ngừa tội phạm ít hơn so với quy định của LHS Pháp, Thụy Điển và Nhật Bản.

- Bốn là, mặt khác, trong LHS các nước lại có sự quy định khác nhau về địa vị pháp lý của biện pháp cưỡng chế có tính chất tịch thu tài sản có liên quan đến tội phạm. LHS Pháp và Nhật Bản đều quy định đó là hình phạt, trong khi đó, LHS Việt Nam và Thụy Điển lại quy định nó là biện pháp hỗ trợ cho hình phạt. Do quy định địa vị pháp lý khác nhau nên mức độ nghiêm khắc của chúng cũng khác nhau, hình phạt bao giờ mức độ nghiêm khắc cũng cao hơn biện pháp hỗ trợ cho hình phạt, và vì thế tính răn đe và phòng ngừa tội phạm cũng cao hơn.

- Năm là, LHS Pháp và Nhật Bản có quy định về biện pháp để tận thu những tài sản có liên quan đến tội phạm (hoặc là

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/11/2023