Những Loại Tội Phạm Sẽ Xảy Ra Nhiều Trong Thời Gian Tới

xấu đến mọi tầng lớp trong xã hội; tệ nạn xã hội luôn có mảnh đất để phát triển, đó là bạn đồng hành của tội phạm. Hiện nay, có nhiều phương tiện nghe nhìn, nhiều loại văn hóa phẩm dễ đến hộ gia đình và phổ biến ngoài xã hội, kể cả những văn hóa phẩm đồi trụy, các trò chơi trên mạng internet từ phim ảnh đến truyện khiêu dâm, loạn luân kích dục, yêu đương trên mạng... Tác động trực tiếp đến sự tò mò, hiếu kỳ và đam mê người chơi. Nếu không được quản lý tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nhân cách, tâm sinh lý và dẫn đến quá trình phạm tội của người chơi.

- Công tác giáo dục ở nhà trường hiện nay và trong tương lai gần đang có nhiều bất cập, đang được thử nghiệm, từng bước hoàn chỉnh và còn gặp không ít khó khăn, phức tạp. Công việc này không thể một sớm, một chiều mà có thể ổn định, nâng cao chất lượng công tác giáo dục, quản lý học sinh ở các nhà trường. Tình trạng học sinh đi học mà không đến trường lớp, lang thang, cắm quán, cầm đồ, vào mạng chát yêu đương và ma túy đang len lỏi đến học đường là những dấu hiệu đáng buồn cho tình hình thực tiễn hiện nay. Đây là một trong những nguyên nhân sâu xa của tình trạng phạm tội ở lứa tuổi vị thành niên.

- Thực tiễn công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong thời gian qua cho thấy, về cơ bản tình hình phạm pháp hình sự vẫn không giảm, thậm chí từng nơi, từng lúc còn phức tạp hơn, quá trình gây án mang tính tinh vi xảo quyệt, táo bạo và trắng trợn hơn.

Với những nét về tình hình phạm tội nêu trên cho chúng ta thấy, nếu không có những biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời thì tình trạng phạm tội trong thời gian tới vẫn tiếp tục có chiều hướng gia tăng và sẽ ngày càng phức tạp hơn.

3.1.2. Những loại tội phạm sẽ xảy ra nhiều trong thời gian tới

Do sự biến chuyển của các quan hệ xã hội mạnh mẽ trong thời gian qua

cũng như thời gian tới đây, các tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp và gia tăng. Qua thống kê của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội từ năm 2008 đến nay có thể dự báo tại địa bàn thủ đô Hà Nội trong thời gian tới một số loại tội phạm sau sẽ gia tăng về số vụ, số bị cáo tham gia một vụ án hoặc tính chất vụ án ngày càng nghiêm trọng hơn:

- Nhóm sử dụng bạo lực: Giết người, cướp giật, cưỡng đoạt, cố ý gây thương tích, gây rối trật tự công cộng sẽ tiếp tục phát triển, tập trung nhiều ở thành phố, thị xã, thị trấn, các trục quốc lộ chính..., giữa huyện này với huyện khác, những nơi có danh lam thắng cảnh (nơi du lịch phát triển, tụ tập đông người).... Sẽ gia tăng và phức tạp đồng thời với đó là việc sử dụng phương tiện, vũ khí như côn, dao, gậy, súng... cũng sẽ tăng lên.

- Tội phạm do người chưa thành niên thực hiện có sự chỉ đạo của người lớn tuổi, lôi kéo, xúi giục, tổ chức, tạo điều kiện sẽ ngày một phức tạp hơn. Loại tội phạm có tổ chức của người chưa thành niên dưới dạng băng, ổ, nhóm cũng có chiều hướng gia tăng. Những vấn đề này sẽ có tác động mạnh mẽ đến trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố.

- Các tội phạm về ma túy: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép các chất ma túy, tội tổ chức, chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

- Tội xâm phạm sở hữu: Tội cướp tài sản, Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội trộm cắp tài sản, tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản…

- Tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế: Tội buôn lậu; tội sản xuất, mua bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; tội vi phạm các quy định về sử dụng, quản lý đất đai; tội thao túng chứng khoán.

Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội - 9

- Tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng: tội vi phạm giao thông đường bộ, đường không; tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản; tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc.

- Tội phạm về chức vụ: tội tham ô tài sản; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ; thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.

Trên đây là những dự báo về xu hướng trong thời gian tới sẽ tăng về số lượng cũng như mức độ nguy hiểm, phức tạp của hành vi. Do vậy, chúng ta cần phải có định hướng cụ thể, tập trung chỉ đạo, phối kết hợp giữa các cơ quan tư pháp, các cơ quan đoàn thể, tạo hành lang pháp lý, trang bị các thiết bị, phương tiện kỹ thuật cần thiết để phục vụ tốt hơn trong việc phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm.

3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn

3.2.1. Tòa án cấp sơ thẩm cần nhận thức đúng đắn về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn

Liên quan trực tiếp đến việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong quá trình tố tụng hình sự, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3/2000 về một số việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000, trong đó quy định về việc xem xét, quyết định bắt trong những trường hợp tuy phạm tội nhưng không đáng bắt, là: "Đối với trường hợp bắt, giam cũng được hoặc không bắt, giam cũng được thì không bắt, giam" [1]. Quan điểm này tiếp tục được hoàn thiện và khẳng định trong Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, đó là: "Những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam" [2]. Mặc dù đây là quy định đối với hoạt động của Viện kiểm sát nhưng cần được coi là định hướng chung đối với hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn, bởi vì theo quy định của BLTTHS thì Viện kiểm sát có quyền phê chuẩn hoặc hủy bỏ lệnh bắt của CQĐT.

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị cũng đòi hỏi các cơ quan tư pháp phải nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can trong một số loại tội [2]. Đề án "Giải pháp hạn chế dùng các biện pháp tạm giam đối với bị can trong một số loại tội phạm cụ thể" đã được Tổng cục Cảnh sát chủ trì nghiên cứu xây dựng [59]; Hiện nay theo sự phân công của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp, Đề án nêu trên đang được VKSNDTC tiếp tục hoàn thiện. Trong đó kiến nghị các giải pháp cụ thể nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc áp dụng biện pháp bắt và tạm giam trong những trường hợp có thể thay thế bằng các biện pháp khác. Những quy định nêu trên thể hiện rõ quan điểm của Đảng ta và Nhà

Nước là kiên quyết hạn chế việc áp dụng biện pháp bắt người, mọi trường hợp bắt không đúng hoặc lạm dụng bắt giữ đều xâm phạm đến các quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Nếu xảy ra oan sai trong khi bắt, giam giữ sẽ để lại những hậu quả rất phức tạp, khó giải quyết đến việc xem xét đền bù những thiệt hại vật chất và tinh thần do việc bắt, giam giữ oan gây ra. Đồng thời, dẫn đến mất lòng tin của nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật và hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp. Mặt khác, việc hạn chế bắt cũng nhằm làm giảm sự quá tải trong các trại tạm giam, nhà tạm giữ, đây là một trong những vấn đề bức xúc của công tác tư pháp và được dư luận xã hội rất quan tâm.

Làm tốt vấn đề này cần phải nhận thức đúng đắn các qui định của pháp luật tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn.

Đồng thời, Lãnh đạo các cấp cần quán triệt cho cán bộ, công chức nhận thức rõ việc chấp hành pháp luật trong bắt, giam giữ là vấn đề đang được quan tâm và nhạy cảm nhất trong quần chúng hiện nay, yêu cầu phải chấp hành đúng pháp luật và chế độ công tác của ngành trong bắt, xử lý đối tượng.

Thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức pháp luật cho cán bộ, công

chức về tầm quan trọng của công tác này, trách nhiệm và những quy định về trình tự, thủ tục, nội dung... áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Lựa chọn các cán bộ có năng lực thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho họ yên tâm với công tác trong lĩnh vực đặc biệt này.

3.2.2. Hoàn thiện hệ thống những quy định của pháp luật có liên quan đến việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn

Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã nhấn mạnh

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ sở cho đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý, mọi công dân đều được bình đẳng trước pháp luật;

Củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp. Phân định lại thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho Tòa án nhân dân cấp huyện. Đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức hỗ trợ tư pháp;

Xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Chấp hành viên, Công chứng viên, Giám định viên, Luật sư có phẩm chất chính trị và đạo đức chí công vô tư, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, bảo đảm cho bộ máy trong sạch, vững mạnh [12].

Những giải pháp về pháp luật trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn Trong hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn, có một ý nghĩa hết

sức quan trọng đó là phải xác lập được một cách hệ thống, đầy đủ các chế định tương ứng để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động áp dụng biện pháp ngăn chặn. Đây là một nội dung, yêu cầu của việc tăng cường pháp chế, đòi hỏi có pháp luật để tuân theo.

BLTTHS ngày 26/11/2003, đã quy định về các biện pháp ngăn chặn và đang dần được hoàn thiện. Thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong thời gian qua đã phát hiện được những thiếu sót, vướng mắc, những vấn đề mới nẩy sinh cần khắc phục. Đây là một trong những vấn đề phức tạp chúng tôi xin được nêu một số kiến nghị sau đây:

* Đối với biện pháp bắt người

Pháp luật tố tụng hình sự quy định việc bắt người ở ba trường hợp: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điều 80 BLTTHS), bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81 BLTTHS) bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 82 BLTTHS). Các điều luật này đã xác định các căn cứ áp dụng, đối tượng bị áp dụng, thẩm quyền quyết định việc áp dụng và cả thủ tục tiến hành. Đây là cơ sở, chỗ dựa cần thiết cho quá trình áp dụng song có một số vấn đề bất hợp lý:

- Trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam: Đây là một chế định chứa đựng cùng lúc hai biện pháp ngăn chặn mà bộ luật tố tụng hình sự quy định đó là biện pháp bắt (nghĩa là tước bỏ quyền tự do thân thể) và biện pháp tạm giam (ở đây mục tiêu trực tiếp trước mắt là đưa họ đến nơi giam giữ để họ không trốn, không có điều kiện để thực hiện tội phạm và đồng thời tạo điều kiện cho việc điều tra, truy tố, xét xử, và chấp hành án), do vậy đây là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn.

Bắt tạm giam bị cáo để đảm bảo công tác xét xử và thi hành án là biện pháp được Tòa án áp dụng trong một số trường hợp cần thiết như bị cáo cố tình trốn tránh không đến Tòa án để tham gia tố tụng theo triệu tập của Tòa án, bị cáo có dấu hiệu bỏ trốn...

Như ở phần trên chúng tôi đã đề cập, pháp luật quy định điều kiện để áp dụng biện pháp này mà không tính đến tình trạng kết cục của việc áp dụng nó trong thực tế. Nghĩa là chỉ quy định có tính quy định ổn định đối với các

đối tượng có đủ điều kiện bắt để tạm giam thỏa mãn những nội dung của khoản 1 Điều 80 và Điều 303 BLTTHS. Do vậy, khi áp dụng bắt là đúng pháp luật song dẫn đến tình trạng quá tải ở các trại tạm giam, không có khu vực giam riêng đối với người chưa thành niên vì vấn đề mất tương xứng giữa số lượng người bị bắt và điều kiện cơ sở vật chất để giam người bị bắt là người chưa thành niên phạm tội do đó cần sửa đổi.

- Trường hợp bắt người phạm tội quả tang: Điều 82 BLTTHS quy định việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã ở đây thể hiện tư tưởng chỉ đạo là khuyến khích, động viên quần chúng nhân dân tham gia vào hoạt động đấu tranh chống tội phạm. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này do quần chúng trực tiếp bắt giữ chiếm tỷ lệ rất cao. Trong việc bắt người phạm tội quả tang, khi thực hiện việc bắt có thể đối tượng bị bắt chống đối lại người bị bắt, hoặc vì sự tức giận ở mức độ cao của người tham gia bắt nên dẫn đến việc sử dụng vũ lực gây tổn hại sức khỏe cho người bị bắt. Người tham gia vào việc bắt có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nếu vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, hoặc một loại tội phạm khác do đó cần thiết phải có quy định thêm một khoản trong Điều 82 BLTTHS đó là: "Không được gây thiệt hại vượt quá giới hạn cần thiết cho người bị bắt" [32, Điều 82].

Một vấn đề nữa đó là khi xuất hiện các dấu hiệu được quy định trong Điều 82 BLTTHS thì "bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và tước vũ khí của người bị bắt" [32, Điều 82]. Việc bắt người phạm tội quả tang mang tính chất cấp bách không thể trì hoãn được mà phải bắt ngay, không phải thông qua kiểm tra, xác minh, chính vì vậy khi áp dụng không thể có điều kiện xác định độ tuổi của người bị áp dụng, dễ dẫn tới vi phạm Điều 303 BLTTHS.

- Đối với quy định việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp: Mặc dù có nhiều ý kiến xung quanh chế định này, trên thực tiễn áp dụng đã góp phần tích cực vào việc ngăn chặn tội phạm, đã tấn công kịp thời, không để tội phạm

xảy ra song những năm qua cũng tồn tại nhiều sai sót như bắt oan, bắt sai, bắt người không đáng bắt, lạm dụng bắt khẩn cấp dẫn đến việc vi phạm các quyền của công dân, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan thi hành pháp luật… Đã có các ý kiến đề nghị bỏ chế định này vì nó có những thực tiễn sai sót nêu trên và cho rằng nó không phù hợp với tính chất công khai trong trình tự tố tụng hình sự. Tuy nhiên, theo chúng tôi khẳng định sự tồn tại chế định này là một tất yếu vì:

+ Luật hình sự quy định các giai đoạn cố ý thực hiện tội phạm có giai đoạn chuẩn bị thực hiện tội phạm - đây là nội dung được luật ghi nhận.

+ Pháp luật hình sự cũng xác định trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi phạm tội ở giai đoạn chuẩn bị thực hiện tội phạm nghĩa là hậu quả pháp lý tất yếu của hành vi chuẩn bị phạm tội do họ thực hiện. Điều 17 BLHS quy định: "Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện" [31, Điều 17].

+ Sự tồn tại tất yếu của một chế định tương ứng trong luật tố tụng hình sự là sự phù hợp giữa nội dung và hình thức thể hiện, do đó cần thiết có chế định quy định về việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp.

Tại khoản 3 của Điều 81 BLTTHS quy định: “Nội dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 80 Bộ luật này” [32, Điều 81]. Quy định này chưa thể đáp ứng đúng được.

Thứ nhất: Nội dung lệnh bắt đúng như phần mô tả trong khoản 2 Điều 80 BLTTHS là hợp lý.

Thứ hai: Trong trường hợp khẩn cấp, do tính cấp bách của việc phải áp dụng biện pháp ngăn chặn, thể hiện sự kịp thời ngăn chặn tội phạm, và việc áp dụng biện pháp này không cần sự phê chuẩn của VKS cùng cấp trước khi thi hành, việc bắt diễn ra ở bất kỳ nơi nào và thời gian nào không trừ thời gian

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 01/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí