Nâng Cao Chất Lượng Của Đội Ngũ Cán Bộ Và Đảm Bảo Các Điều Kiện Công Tác Nhằm Thực Hiện Tốt Việc Áp Dụng Các Biện Pháp Ngăn Chặn

dung có ý nghĩa quan trọng trong quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với đối tượng này.

Quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người người phạm tội đạt hiệu quả tốt nhất được thể hiện ở chỗ cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng lựa chọn và thực hiện những hành vi ứng xử một cách hợp lý và có hiệu quả nhất, thực chất của quá trình này là thực hiện căn cứ hợp pháp, phương pháp sáng tạo, hiệu quả cao nhất.

Từ kết quả nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn, chúng tôi có những ý kiến đề xuất để khắc phục những sai lầm, thiếu sót, vướng mắc, tồn tại trên một số phương diện sau:

* Đối với các biện pháp ngăn chặn cụ thể

+ Trong hoạt động áp dụng biện pháp bắt người: Tình hình áp dụng biện pháp này đang là một vấn đề được nhiều người quan tâm. Nó là vấn đề nhạy cảm của xã hội nên khi áp dụng biện pháp bắt, cần đảm bảo được yếu tố bí mật, bất ngờ, bắt đúng, bắt gọn, đồng thời xem xét đến tình hình chính trị tại địa phương để quyết định. Vì vậy cần:

- Tập trung xây dựng mạng lưới cơ sở bí mật, đặc tình đảm bảo quán xuyến được địa bàn, cung cấp thông tin kịp thời, phục vụ cho công tác bắt người đang có lệnh truy nã. Mỗi đơn vị Công an cấp huyện phải có lực lượng ở tại địa phương mình hoạt động có hiệu quả. Hiện nay, việc bắt người chưa thành niên phạm tội đang có lệnh truy nã thực hiện đạt hiệu quả chưa cao do nhiều nguyên nhân: Lực lượng Cảnh sát hình sự thực hiện công tác bắt đối tượng truy nã còn gặp nhiều khó khăn vì lực lượng ít, phương tiện, điều kiện vật chất thiếu, cơ sở cung cấp thông tin về các đối tượng truy nã chưa quán xuyến được địa bàn, nhân dân thực hiện việc bắt đối tượng này chưa nhiều...

- Bắt người trong trường hợp khẩn cấp: Trên cơ sở pháp luật tố tụng hình sự quy định khi áp dụng trường hợp này cần xem xét đánh giá tính chất

của vụ án, vai trò của đối tượng, giá trị thông tin đã thu thập được để quyết định lựa chọn thời điểm, địa điểm, hình thức thực hiện việc bắt. Vấn đề này mấy năm qua còn có tình trạng lạm dụng bắt khẩn cấp, thiếu cân nhắc, tính toán hoặc cán bộ điều tra viên tự xây dựng tình tiết cấp bách để áp dụng biện pháp này. Do vậy, cần phải kiên quyết chấn chỉnh việc bắt khẩn cấp theo hướng phân tích trên.

- Bắt bị can, bị cáo để tạm giam: Việc bắt bị can bị cáo để tạm giam là tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự nhưng đồng thời đây là lý do hợp lý để áp dụng các tình huống nghiệp vụ như đưa đặc tình vào trại giam, hoặc tác động tâm lý đến các bị can khác trong vụ án có đồng phạm. Đối với Tòa án, khi xét thấy cần phải tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo việc xét xử và thi hành án thì Tòa án ra lệnh tạm giam theo thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án.

* Đối với Lãnh đạo các cơ quan tiến hành tố tụng, khi quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn cần kiểm tra các căn cứ pháp lý mà luật tố tụng hình sự quy định. Diễn biến của quá trình điều tra để quyết định đúng lúc, tránh vội vàng, bảo đảm thống nhất trong chỉ đạo, thể hiện kiên quyết trong tấn công tội phạm và tích cực bảo đảm an toàn trong hoạt động bắt giữ đối tượng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Hai khuynh hướng cần tránh trong quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người người phạm tội đó là thiếu kiểm tra căn cứ pháp luật dẫn đến sai lầm, vi phạm pháp luật hoặc do dự, thiếu kiên quyết làm mất thời cơ dẫn đến đối tượng có cơ hội bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, trên cơ sở đó đòi hỏi Lãnh đạo các đơn vị tố tụng cần nâng cao trách nhiệm cá nhân, dám chịu trách nhiệm về quyết định của mình, tránh tình trạng thiếu kiên quyết trong xử lý sai phạm và thiếu quyết đoán trong hành động.

* Áp dụng các biện pháp ngăn chặn luôn luôn có sự tác động của nhiều nhân tố, vì vậy trong quá trình này cần quán triệt các nội dung sau:

Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội - 11

- Chỉ đạo sát, phối hợp đúng, kiểm tra chặt chẽ quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Thực thi các biện pháp cưỡng chế cần thiết, khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế đó, có thể gặp phải sự chống đối của chính bản thân đối tượng hoặc những người khác bị lôi kéo, kích động vì vậy phải xây dựng kế hoạch một cách chi tiết tỷ mỷ, phân công trách nhiệm cụ thể, các nhóm, các cá nhân chịu trách nhiệm từng phần việc trong sự phối hợp tác chiến đảm bảo thống nhất dưới sự chỉ đạo của người điều hành, đặc biệt trong hoạt động bắt giữ các đối tượng côn đồ, hoặc bắt nhiều đối tượng cùng lúc.

CQĐT, các lực lượng trinh sát, những người được huy động vào việc tiến hành hoạt động bắt giữ đối tượng, cùng thống nhất nội dung, xây dựng kế hoạch diễn tập các tình huống dự kiến, để bảo đảm yếu tố bất ngờ, chủ động và đủ khả năng trấn áp sự chống cự của đối tượng trên cơ sở nắm chắc địa bàn, đặc điểm nhân thân đối tượng, địa hình, cấu trúc xây dựng... nơi cần tiến hành bắt giữ.

- CQĐT phải thiết lập được đường dây liên lạc thông suốt, kịp thời giữ CQĐT với chính quyền địa phương, để vừa kiểm tra, vừa chỉ đạo được hoạt động của các lực lượng ở địa phương, đặc biệt có sự chỉ dẫn để lực lượng cơ sở nắm bắt diễn biến tình hình, biết cách quản lý đối tượng.

- Thực hiện nhanh, bảo đảm bí mật, bất ngờ: Trong khi áp dụng biện pháp ngăn chặn đặc biệt trong việc bắt đối tượng, mọi thao tác phải thực hiện nhanh chóng, bất ngờ để tước bỏ điều kiện chống cự của người bị bắt, không để người bị bắt có điều kiện thời gian gây khó khăn cho lực lượng thi hành. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo đảm bí mật cả nội dung hoạt động điều tra và bí mật không để đối tượng tìm cách tẩu thoát, vấn đề này đòi hỏi điều kiện, môi trường hoàn cảnh hoặc tạo ra môi trường hoàn cảnh có lợi cho lực lượng tiến hành, hoặc chiến thuật hóa trang phù hợp, lựa chọn chiến thuật tùy thuộc vào từng loại đối tượng khác nhau.

Với vai trò là lực lượng nòng cốt trong đấu tranh chống tội phạm, lực lượng Công an nhân dân cả nước tiếp tục phát huy những thành tích của những năm qua, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, góp phần vào việc phát triển nền kinh tế - xã hội.

Trong đó, cơ quan Tòa án nhân dân với tư cách cơ quan tiến hành tố tụng, với nhiệm vụ xét xử các vụ án (trong đó có nhiệm vụ xét xử án hình sự), xác định sự thật của vụ án để giải quyết theo pháp luật, trong hoạt động của mình pháp luật cho phép được áp dụng các biện pháp ngăn chặn để bảo đảm kịp thời ngăn chặn tội phạm, không để đối tượng này gây cản trở cho hoạt động xét xử và chấp hành bản án hình sự, góp phần tích cực vào phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc. Do vậy, khi thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa cần nghiên cứu kỹ hồ sơ, xem xét việc có cần thiết hay không việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn đối với các bị can, bị cáo. Nếu xét thấy cần thiết phải tiếp tục tạm giam bị cáo đối với bị cáo đang bị giam theo lệnh của Viện kiểm sát thì đề xuất Chánh án, Phó Chánh án phụ trách ký Lệnh tạm giam bị cáo theo thời hạn pháp luật đã quy định; nếu xét thấy việc giam bị cáo là không cần thiết, có thể cho bị cáo tại ngoại, thay đổi biện pháp ngăn chặn từ giam sang biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú, Bảo lĩnh hay đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo.

3.2.4. Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ và đảm bảo các điều kiện công tác nhằm thực hiện tốt việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn

Điều cần thiết phải tiến hành thường xuyên việc tập huấn nghiệp vụ cho các Thẩm phán và Hội thẩm về vấn đề áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ BPNC. Cần phải có văn bản hướng dẫn chi tiết về các trường hợp áp dụng, về thẩm quyền ra lệnh bắt bị cáo để tạm giam, việc bắt người vi phạm trật tự, nội quy phiên tòa, về thẩm quyền áp dụng, thay đổi BPNC của Chánh án, Phó chánh án, của Thẩm phán là Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm TANDTC và của HĐXX, về thời hạn tạm giam trong từng thời đoạn của quá trình xét xử.

Cần tăng cường công tác lãnh đạo, kiểm tra các hoạt động điều tra đảm bảo cho việc ban hành các quyết định áp dụng pháp luật có căn cứ và hợp pháp, đảm bảo cho hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự thủ tục, thời hạn, phát hiện kịp thời những sai lầm vi phạm pháp luật của điều tra viên hoặc các cán bộ, cơ quan khác có liên quan.

Bồi dưỡng nâng cao trình độ pháp luật, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công chức, Hội thẩm nhân dân, chú trọng công tác đào tạo nhằm nâng cao tỷ lệ có trình độ cao học trong đội ngũ cán bộ, công chức.

Đảm bảo tiêu chuẩn của những người làm nhiệm vụ tư pháp. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chức danh tư pháp hình sự. Đảm bảo hệ thống tiêu chuẩn của các chức danh tư pháp của ngành Tòa án vừa phù hợp với thực tiễn của đội ngũ cán bộ của ngành hiện có, vừa tương đồng với các chức danh tư pháp của các ngành có quan hệ trực tiếp như CA, VKS, đồng thời đảm bảo cho các yêu cầu của hoạt động tư pháp trong thời gian tới. Chú ý đặc biệt đến tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, năng lực tổ chức, chỉ huy, kiến thức pháp luật (trước hết là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự) và nghiệp vụ (trước hết là nghiệp vụ xét xử án hình sự).

Phấn đấu cán bộ có các chức danh tư pháp đều phải có trình độ đại học luật và phải qua đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ. Phải thi sát hạch trước khi bổ nhiệm và bổ nhiệm có thời hạn cán bộ có chức danh tư pháp. Thống nhất việc đào tạo các chức danh tư pháp.

Không ngừng nâng cao trình độ pháp luật của đội ngũ cán bộ có nhiệm vụ trực tiếp áp dụng các biện pháp ngăn chặn thông qua các hình thức đào tạo như bồi dưỡng nghiệp vụ, tập huấn... với những nội dung thiết thực, bổ ích gắn với yêu cầu của thực tiễn. Đặc biệt chú ý đến việc bồi dưỡng những tri thức pháp luật có liên quan đến việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự nhằm hạn chế đến mức thấp nhất và tiến tới loại bỏ tình trạng vi phạm quy định của pháp luật.

Hoàn thiện kiến thức pháp luật trong các lĩnh vực như pháp luật hành chính, pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật về kinh tế... cho đội ngũ cán bộ công chức là người trực tiếp thi hành các quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn.

Cần chú trọng đưa các tình huống pháp luật có liên quan đến việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự vào quá trình giảng dạy pháp luật cho học viên, sinh viên ở các trường đào tạo về ngành luật.

Tăng cường công tác kiểm tra đối với đội ngũ Thẩm phán, kiên quyết xử lý hoặc thanh lọc những người có sai phạm thoái hóa biến chất, đề cao trách nhiệm của Lãnh đạo Tòa án và các Thẩm phán.

Tòa án nhân dân cần coi trọng công tác tổng kết rút kinh nghiệm định kỳ (hàng quý, hàng năm) trong lĩnh vực áp dụng biện pháp ngăn chặn. Những trường hợp có sai sót trong khi áp dụng pháp luật, có vướng mắc trong áp dụng pháp luật cần được chú ý tổng hợp thành tài liệu tập huấn và phát hành đến các đơn vị cơ sở có chức năng.

Tóm lại, trong số các giải pháp nâng cao chất lượng việc áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật TTHS thì việc cơ bản là phải nâng cao trình độ chuyên môn cho những người tiến hành tố tụng và những người có thẩm quyền áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, giúp cho họ có nhận thức đúng các quy định về bắt, giữ, giam, từ đó làm cơ sở cho việc thực hiện các hoạt động TTHS tiếp theo.

3.2.5. Giải pháp về tăng cường công tác chỉ đạo và kiểm sát, kiểm tra việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự và tuyên truyền giáo dục pháp luật cho quần chúng nhân dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật là điều kiện để bảo đảm việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn

Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan, một vấn đề

quan trọng đặt ra trước mắt cũng như về lâu dài là tăng cường biện pháp để nâng cao trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng trong vấn đề áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Để nâng cao trách nhiệm của họ, đòi hỏi phải tiếp tục nâng cao trình độ pháp lý cho những người tiến hành tố tụng, mặt khác tăng cường công tác kiểm tra của Thủ trưởng các đơn vị, của cơ quan quản lý cấp trên đối với cán bộ thuộc quyền và với cán bộ cấp dưới. Một lĩnh vực giám sát quan trọng là cần tăng cường công tác kiểm sát của VKSND đối với việc bắt, tạm giữ và tạm giam. Mặc dù pháp luật có quy định VKSND có quyền thường kỳ hoặc bất thường trực tiếp kiểm sát nhà tạm giữ, trại tạm giam... nhưng các VKS cần có kế hoạch thường kỳ áp dụng quyền hạn này, hơn nữa cần tạo lập quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa VKS với cơ quan có thẩm quyền bắt, tạm giữ, tạm giam để bảo đảm mỗi khi có việc bắt, tạm giữ, tạm giam thì đều có hoạt động kiểm sát.

Bên cạnh đó, Lãnh đạo ngành Tòa án thường xuyên kiểm tra, giám sát đối với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Đối với những trường hợp vi phạm, cần xác định rõ trách nhiệm của những người có liên quan để xử lý nghiêm minh, nhằm nâng cao trách nhiệm của những người có liên quan.

Thực hiện tốt công tác kiểm tra định kỳ và đột xuất với các hoạt động áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự của các ngành, các lực lượng, các đơn vị có thẩm quyền. Phải coi việc này là một công tác quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền công dân. Thông qua công tác này mà hướng dẫn cho các cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn thực hiện pháp luật đúng đắn và thống nhất, phát hiện được kịp thời việc làm sai trái trong quá trình áp dụng pháp luật tố tụng hình sự.

Chú trọng đúng mức đến việc giải quyết các đơn thư khiếu nại tố cáo về sai phạm của cơ quan chức năng trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và công

dân. Phải coi việc tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại tố các của công dân về vấn đề này là một trong các biện pháp khắc phục những nhược điểm trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội, phát hiện được các hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn.

Ngoài những vấn đề trên, việc nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân là việc làm rất quan trọng.

Một số kiến nghị

Thứ nhất: Đề nghị VKSND tối cao cùng với Bộ Công an phối hợp xây dựng Quy chế về quan hệ phối hợp giữa cơ quan Công an và VKS trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam và kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam trong đó qui định quan hệ phối hợp là trách nhiệm của hai bên. Trên cơ sở quy định của BLTTHS, mỗi khi có trường hợp bắt quả tang hoặc khẩn cấp, cơ quan Công an phải thông báo ngay cho VKSND biết và hai bên phải phối hợp để xem xét, phân loại đối tượng, làm cơ sở cho VKS quyết định có phê chuẩn hay không phê chuẩn việc bắt khẩn cấp cũng như phê chuẩn việc gia hạn tạm giữ. Mỗi VKSND cần bố trí ít nhất một cán bộ chuyên trách công tác kiểm sát việc bắt, giữ, giam, hàng ngày thường xuyên quan hệ với cơ quan Công an để nắm vững những trường hợp bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam. Mọi thông tin về bắt và tạm giữ, tạm giam cần được thông báo kịp thời trong ngày cho lãnh đạo cơ quan Công an và VKS để xem xét và xử lý những vấn đề phát sinh.

Riêng đối với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn của Tòa án, Viện kiểm sát thông qua hoạt động giám sát giam giữ của mình tại các trại giam nhằm phát hiện sớm những sai sót của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, đặc biệt là biện pháp bắt tạm giam.

Thứ hai: Hàng năm, các ngành Tòa án, Kiểm sát và Công an cần phối hợp với nhau tập huấn cho cán bộ của mình những quy định của pháp luật có

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/11/2023