Giới Thiệu Các Tộc Người Tái Định Cư Ở Thủy Điện Nam Ngưm 2


(iv) Vốn xã hội, là số lượng các nhóm hoặc tổchức được những người trưởng thành trong gia đình tham gia, và số lượng những người thân mà hộ gia đình có thể nhờ giúp đỡ;

(v) Vốn vật chất, xem xét cơ sở hạ tầng của địa phương (cộng đồng), bao gồm thủy lợi, cầu cống, đường giao thông, điện, hệ thống cấp nước, công sở, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa, chợ v.v... mà các hộ gia đình có thể sử dụng như nhau [49, tr. 15].

Sơ đồ 1: Khung phân tích sinh kế bền vững

Nguồn DFID 2004 1 2 2 Các khái niệm 1 2 2 1 Khái niệm sinh kế Sinh kế là một 1

Nguồn: DFID (2004)

1.2.2. Các khái niệm

1.2.2.1. Khái niệm sinh kế

Sinh kế là một khái niệm được mối quan tâm của các nhà nghiên cứu hiện nay, mặc dù khái niệm sinh kế được hiểu theo cách này hay cách khác và sử dụng ở những cấp đô ̣khác nhau . Nhưng khái niệm “sinh kế” theo cách hiểu đơn giản nhất là “phương thức kiếm sống của con người”. Một định nghĩa đầy đủ hơn của Chambers và Conway về sinh kế là: “Sinh kế bao gồm


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

khả năng, nguồn lực và các hoạt động cần thiết làm phương tiện sống của con người”(Chambers và Conway, 1992, tr. 5).Nghiên cứu sinh kếcủacác nhà Dân tộc học/Nhân học thường dựa vào phân tích khung sinh kế bền vững của Bộ phát triển quốc tế Anh (DFID, 2001).

1.2.2.2. Khái niệm sinh kế bền vững

Như đã trình bày trên, sinh kế không nằm ngoài khả năng, tài sản màbao gồm cả các nguồn lực vật chất, xã hội và các hoạt động cần thiết để

kiếm sống (DFID, 1999, tr.4). Nhưng môt

câu hỏi quan tron

g đươc

đăṭ ra la

thế nào là một “sinh kế bền vững” khi khái niệm sinh kế đang ngày càng tr ở nên quan trọng trong các th ảo luận và phân tích v ề phát triển xã hội ? Viêc̣ định nghĩa thế nào là một sinh kế bền vững trong một bối cảnh cụ thể vẫn còn

phải tiếp tục bàn luận (Scoones, 1998, tr. 14). Nhưng nhìn chung, một sinh kế

đươc

coi là bền vững khi nó có kh ả năng ứng phó và phục hồi khi bị tác động

hay có thể thúc đẩy các khả năng và tài sản ở cả thời điểm hiện tại và tương lai trong khi không làm xói mòn nền tảng của các nguồn lực tự nhiên (Hanstad và cộng sự, 2004, tr. 1; Carney, 1998, tr. 4).Một định nghĩa khác cũng được chấp nhận khá rông rãi của Robert Chambers về sinh hoạt sinh kế là "khả năng của con người để kiếm sống và cải thiện chất lượng cuộc sống của họ mà không cần gây nguy hiểm cho sự lựa chọn sinh kế của người khácở hiện tại và tương lai".

1.2.2.3. Di dân(Immigrant)

Di dân là sự chuyển dịch của con người từ một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ khác trong thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh viễn. Nói cách khác, di dân là quá trình di chuyển dân số hoặc quá trình con người rời bỏ hoặc hội nhập, hoặc thiết lập nơi cư trú mới vào một đơn vị hành chính - địa lý trong một thời gian nhất định. Di dân có thể liên quan đến sự di chuyển của một cá nhân, một gia đình, thậm chí cả


một cộng đồng.Về hướng di dân là di trong nội địa; Về địa bàn đến là theo loại hình Nông thôn -thành thị, Thành thị - thành thị, Thành thị - nông thôn và Nông thôn - nông thôn; Về pháp lý là theo hình thức di dân có tổ chức hoặc mang tính bắt buộc hoặc tự nguyện. Đối với loại hình di dân của thủy điện NN2 là loại hình di dân bắt buộc với hình thức địa bàn là Nông thôn – Nông thôn diễn ra trong khuôn khổ của các chương trình pháp lý của Đảng và Nhà nước Lào. Theo đó, người di cư được nhận sự hỗ trợ ổn định đời sống từ bên Nhà quản dự án thủy điện NN2, được dự án định hướng địa bàn cư trú, việc làm mới cho dân [34. tr. 35-41].

1.2.2.4. Tái định cư (Resettlement)

Tái định cư(TĐC) là việc phải di dời một hộ gia đình, một nhóm người hoặc cả một cộng đồng người dân đến một nơi ở mới. Khái niệm này ảnh hưởng tác động trực tiếp đến đời sống của người dân khi bị mất tài sản, nguồn thu nhập hay mất những phương tiện kiếm sống mà do dự án phát triển gây ra và phải khôi phục lại cuộc sống cho người chịu ảnh hưởng. Vì vậy, TĐC bao hàm cả việc thực hiện chính sách bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất hoặc tài sản của người dân.Việc khôi phục lại cuộc sống cho người bị ảnh hưởng có thể trả bằng giá trị tiền mặt hoặc tài sản khác (nhà cửa, đất đai, tiền bạc…) để bù đắp nguồn sinh sống, lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần cho dân theo quy định của Nhà nước. Nói cách khác, bên sử dụng đất hoặc tài sản do quá trình triển khai thực hiện dự án đó chính là hình thức trách nhiệm dân sự để bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần cho bên thiệt hại, nhưng thiệt hại này không phải do hành vi trái pháp luật (của nhà đầu tư hay của Nhà nước) mà là thực chất là kết quả của “phá hủy - tái tạo” trong quá trình phát triển của kinh tế - xã hội của đất nước.


1.2.2.5. Biến đổi sinh kế (Livelihood Change)

Biến đổi sinh kếlà khái niệm cơ bản trong nghiên cứu này, gợi ý là sự thay đổi phương thức kiếm sống của người dân sau khi TĐC.Định nghĩa này có liên quan trực tiếp đến hai khái niệm di dân và TĐC. Người dân khi bị thu hồi đất, mất đi các tài sản, nguồn thu nhập hoặc những phương tiện kiếm sống mà do dự án phát triển gây ra và phải có trách nhiệm khôi phục lại cuộc sống cho dân [nhấn mạnh lại]. Chính sự khôi phục này đã khiến cho sinh kế người dân bị biến đổi bất thường. Đồng thời, trong khái niệm di dân khi con người chuyển dịch từ một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ khác trong thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh viễn thì cũng khiến cho nền sinh kế bị biến đổi theo. Hay nói cách khác, nền sinh kế cũ sẽ thay thế bằng nền sinh kế mới khác đi thể hiện thông qua: ăn, ở, mặc, việc làm, nhu cầu cuộc sống v.v. mà sự biến đổi sinh kế này có thể khiến cho đời sống con người tốt hơn cũ, bằng cũ hoặc không bằng cũ.

Khung phân tích biến đổi sinh kế của luận văn


Xây dựng thủy điện NN2 và chính sách tái định cư

Tác động sinh kế của người dân và thực hiện di dân (Năm 2011)

Biến đổi sinh kế của người dân sau khi TĐC ở bản Phonesavat

(Sau năm 2011)


Biến đổi kinh tế nông nghiệp

Biến đổi kinh tế thủ công

Biến đổi kinh tế lâm nghiệp

Biến đổi kinh tế tự nhiên

Biến đổi kinh tế thương nghiệp


1.3. Khái quát về địa bàn nghiên cứu

1.3.1. Bản Phonesavat(Nơi đến)

Phonesavat là địa bàn nghiên cứu cho luận văn, vị trí nằm ở huyện Mương Phương, tỉnh Viêng Chăn. Phonesavat là nơi có lợi thếphát triển kinh tế nông nghiệp và thương mại vì gần với trung tâm tỉnh Viêng Chăn khoảng 90 km [8, tr.7].Trong những năm qua, huyện Mương Phương nói chung, bản Phonesavat nói riêng đã đóng góp nguồn thu cho ngân sách tỉnh Viêng Chăn, đặc biệt là sản xuất gạo và một số loại khoáng sản tự nhiên với giá trị trung bình chiếm 5% của tổng nguồn thu của tỉnh. Năm 2006, khi Chính phủ Lào ký kết xây dựng thủy điện NN2, bản Phonesavat được chọn xây dựng thành khu tái định cư cho người dân thủy điện NN2 với diện tích là 2.000 ha, trước đó là diện tích rừng. Về vị trí địa lý, phía Nam giáp với thị trấn huyện Mương Phương, phía Bắc giáp với huyện Kasi, phía Đông giáp với huyện Văng Viêng và phía Tây giáphuyện Mương Mẹt. Nơi này cách xa từ nơi ở cũ (huyện Mương Phun) khoảng 150 km về phía Tây.

Khu tái định cư bản Phonesavat có đặc điểm tự nhiên nhiệt độ trung bình hàng năm từ 280C, cao nhất là 380C và thấp nhất là 220C. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 10, lượng nước mưa hàng năm trung bình 1.600 mm đến 2.200 mm và phân bố không đều theo không gian và thời gian.Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 cho đến tháng 5, lúc này khí hậu rất nóng và trời rất nắng. Tốc độ gió trung bình trong năm là 2,8m/s, cao nhất là 3,4m/s và thấp nhất là 1,8m/s. Hệ thống thủy văn khá đa dạng nhưng chủ yếu tập trung ở phía Đông với dòng chảy tương đối mạnh, các dòng sông đều chảy theo hướng Bắc-Nam, trong đó gồm có sông Nam lít và sông Nam Tông là hai con sông lớn nhất. Hai con sông này là nguồn cung cấp nước sinh hoạt và tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp của dân trong khu vực. Nhưng, mỗi khi mùa mưa hai dòng sông này thường xuất hiện lớn và gây lụt tới các khu sản xuất của người dân, đặc


biệt đồng lúa và vườn sản xuất lương thực. Về địa hình, ở phía Bắc của bản Phonesavat gồm có các dãy núi cao, dốc và có nhiều cây cối hoặc rừng rậm. Điểm nổi bật là vùng có diện tích bằng phẳng chiếm 60% thuận tiện cho việc thông thương đi lại, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và thuận tiện phát triển kinh tếnông nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận tiện là có những khó khăn vì bản Phonesavat nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, chịu gió nóng Tây- Nam, thường gâythiệt hại tới sự sinh trưởng của các loại cây trồng và vật nuôi, nhất là vào tháng 3 đến tháng 4 hàng năm.

Thực hiện theo Nghị định số 192 của Chính phủ Lào, bản Phonesavat có phát triển một số cơ sở hạ tầng như: đường giao thông, điện, nước, trường học, trạm y tế, chợ và nhà ở mới cho dân.Vào năm 2011, người dân đã chuyển cư đến ở bản Phoensavat gồm có 1.176 hộ, dân số7.173 người. Trong đó, có dân tộc Khơ mú chiếm dân số 67%, Lào chiếm 25% và H’Mông chiếm 8%[22 tr. 28-37].

1.3.2. Đặc điểm nơi ở cũ(Nơi đi)

Huyện Mương Phun là nơi đi của người dân TĐC bản Phonesavat, vị trí nằm ở cách xa từ trung tâm tỉnh Viêng Chăn khoảng 200 km về phía Đông Bắc hoặc nằm trên thượng lưu của thủy điện Nam Ngưm1 khoảng 35 km. Tổng diện tích tự nhiên 203,589 ha, trong đó đã khai thác sản xuất là 26, 348 ha, diện tích khu dân cư là 1.653ha. Diện tích phần lớn là rừng núi và sông suối. Trước năm 2011, huyện Mương Phun thuộc tỉnh Viêng Chăn (hiện nay thuộc tỉnh Xaysombun)có ranh giới giáp với các khu vực như: Phía Bắc giáp với tỉnh Xiêng Khoảng, phía Nam giáp với huyện Mương Hôm, phía Đông giáp với huyện Xaysombun và phía Tây giáp với huyện Văng Viêng. Về địa hình, miền núi chiếm diện tích lớn 90% và đồng bằng chiếm diện tích 10%.

Bề mặt địa hình không đồng đều do có nhiều dãy núi cao, dốc và tạo ra các nguồn suối nhỏ phức tạp. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 220C đến 360C,


lương nước mưa trung bình là 1,600mm đến 2,200mm, tốc độ gió trung bình trong năm là 2,8m/s, cao nhất là 3,4m/s và thấp nhất là 1,8m/s. Trong vùng có hệ thống thủy văn rất phong phú, trong đó có sông Nam Ngưm và sông Nam Phunlà hai con sông lớn nhất và là nguồn cung ấp nước sinh hoạt và tưới tiêu của người dân. Rừng cũng chiếm diện tích rộng khoảng 3/4 trong diện tích toàn huyện. Trong rừng không chỉ đa dạng các loại thảm thực vật và động vật quý hiếm mà còn đa dạng lương thực, thực phẩm rất thuận tiện cho người dânkiếm sống.Mương Phun là dù một huyện miền núi nhưng tập trung nhiều cộng đồng dân tộc sinh sống từ lâu đời, đó là người Khơ mú, người Lào và người Hmong. Tổng số bản trong huyện gồm có 38 bản và dân số khoảng 28,165 người, trong đó người Khơ mú chiếm tỷ lệ dân số 66%, người Lào chiếm tỷ lệ dân số 24% và người Hmong chiếm tỷ lệ dân số 10%. Các dân tộc cư trú rải rác trên các vùng núi cao, thung lũng và đồng bằng ven sông ven đường. Về cơ sở hạ tầng, các tuyến đường giao thông chủ yếu là đường quốc lộ từ Viêng Chăn- Saysombun, ngoài ra là các tuyến đường từ các bản trong huyện, nhưng đường chủ yếu là đường đất rất thô sơ. Có 1 trường trung học phổ thông, 1 bệnh viện ở trung tâm huyện và một số nhà cơ quan làm việc của chính quyền địa phương. Trong số các bản dân và các tài sản trên, dự án Thủy điện NN2 gây thiệt hại tới 17 làng, 1.176 hộ, dân số là 6.871 người. Theo đánh giá, điểm nổi bật tại nơi ở cũ của người dân là nơi chiếm ưu thế về tài nguyên thiên nhiên như: đất đai rộng, rừng rậm, nhiều song suối và phong phú các loại thảm thực vật và động vật rừng. Đồng thời, khí hậu thời tiết cũng rất phù hợp cho các loại cây trồng và vật nuôi. Phương thức kiếm sống của người dân dễ dàng hơn. Tuy nhiên, bên cạnh điểm mạnh còn có những điểm yếu như: giao thông hiểm trở, cơ sở hạ tầng thô sơ và cách xa cá trung tâm thương mại. Các sảm phẩm sản xuất ra chủ yếu tự cung tự cấp mà ít được bán ra trên thị trường để thu nhập kinh tế cho gia đình[22 tr. 9-15].


13.3. Giới thiệu các tộc người tái định cư ở thủy điện Nam Ngưm 2

13.3.1. Vài nét về người Khơmú

Người Khơmú có nguồn gốc đến từ tỉnh Xiêng Khoảng vào thời kháng chiến chống Pháp (năm 1945). Dân tộc này cư trú chủ yếu ở các vùng rẻo giữa núi và phân bố rải rác theo các điều kiện canh tác và săn bắt-hái lượm. Cây trồng chính trong canh tác chủ yếu là lúa nếp, ngô, sắn, khoai, sọ, bầu và bí. Vật nuôi chủ yếu là gà, lợn, dê, trâu và bò. Phương tiện sản xuất chủ yếu là dao, rìu, nu, gậy và cuốc. Các đối tượng trong săn bắt và hái lượm là nấm, rau rừng, măng, hoa quả và săn bắn chim, chuột, sóc, gà rừng, nai, heo.... Ngoài việc săn bắn là người dân còn đi đánh và bắt cá theo các con sông, suối và ao. Về văn hóa vật chất, ngôi nhà truyền thống của người Khơmú là nhà nửa sàn nửa đất và xây trên vị trí rẻo giữa núi. Hiện nay, người Khơmú ít khi xây nhà nửa sàn mà xây thành nhà sản thấp và thấy xuất hiện nhiều ở các vùng bằng. Về bộ trang phục, theo các tài liệu ghi lại, nghề dệt may và kéo sợi không phát triển ở cộng đồng người Khơmú nên bộ trang phục truyền thống của hộ có những nét tương tự bộ trang phục của người Lào. Tuy nhiên, cũng có những khác biệt như: áo nhuộm bằng màu chàm đen, cổ tròn, ngắn tay, ở cổ tay áo và cổ áo thêu hoa văn màu đỏ. Về văn hóa tinh thần, người Khơmú có hoạt động văn hóa truyền thống của mình từ lâu đời, chẳng hạn như cử hành lễ hội Krer. Lễ hội này diễn ra mỗi năm vào tháng 2 sau khi thu hoạch. Trong suốt lễ hội, các linh hồn lúa, ngô, khoai, sắn, bầu, bí v.v. được coi như là những linh hồn của hộ gia đình. Ngoài ra, họ yêu cầu các thần linh đó bảo vệ khỏi đói nghèo trong năm tới. Bên cạnh đó, người Khơmú có tín ngưỡng thần làng. Tại đầu làng Khơmú, dân làng dựng lên một ngôi nhà thờ thần làng và coi đó là không gian linh thiêng và bí ẩn. Nếu một người nào đó phạm tội trong khu vực này, người ta tin rằng bất hạnh sẽ xảy đến người đó. Đến nay, người Khơmú vẫn còn duy trì phong tục này. Về tập quán cưới xin, người

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 26/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí