Bia đá thế kỷ XVII của một số chùa ở ngoại thành Hà Nội (khảo sát 10 huyện phía tây và phía nam Hà Nội) - 20

Bia ghi việc xây dựng nền đất bậc đá và tôn tạo Kim Dung bảo điện ở chùa Thiên Trù.

Ngày ấy giáo pháp của đức Thế Tôn đã lưu truyền rộng khắp trải nhiều A- tăng- kỳ kiếp, suốt từ thời thượng cổ đến nay mở mang đạo phật. Như vậy đạo Thiền quả là tôn giáo chân chính. Viên Giác tôn giả được đặc ban như Lai vân thuỷ thiền thiên đạo viên quang chân nhân, được nhà nước ban cho làm Hoà thượng ở ty Tăng lục viện Thượng lâm, trong sạch một lòng phụng thờ tam bảo. Trong thì tôn tạo bảo động Hương Tích, ngoài thì sửa sang cảnh Phật Thiên Trù. Khuyến khích thập phương đóng góp công đức. Phúc lớn thiên dài, lưu mãi đèn hương thờ Phật; viên mãn quả Phật, lưu truyền đạo lớn lâu dài. Nước cầu đảo thì thế nước vững bền, dân khấn nguyện thì đời dân phú quý. Do vậy công đức phúc đẳng hà sa. Đời đời đều chứng bồ đề, người người viên thành đạo Phật. Truyền mãi muôn thưở cho đời sau tỏ.

Các vị hưng công hội chủ cùng khách thập phương đóng góp công đức, đều ghi rò họ tên dưới đây:

- Công đức quận chúa Trịnh Thị Ngọc Giang người xã Sóc Sơn huyện Vĩnh Phúc đến ở làng Biện Thượng, cùng quý quan Nguyễn Đăng Lục cúng 20 quan tiền cổ.

- Thân mẫu là Chiêu Nghi Vũ Thị Ngọc Xuyến hiệu là Huệ Trưởng Kiên cố bồ tát, cúng 6 quan tiền cổ.

Vương Thái Phi Quốc thái mẫu Trịnh Thị Ngọc Long, cúng 3 quan. Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Lỗ cúng 2 quan.

Trịnh Thị Ngọc Hiệu hiệu Diệu Loan chân nhân, cúng 1 quan Trịnh Thị Ngọc Mẫn cúng 1 quan

Phó tướng Phái quạn công Trịnh Du, thân mẫu Trần Thị Dề, hiệu Diệu Đề cúng 2 quan.

Trịnh Thị Ngọc Thuyên hiệu Diệu Tín cúng 1 quan

Vũ Thị Bàn hiệu Diệu Thu tín quan Tham đốc Trí Mĩ hầu Trịnh Bính tự Đạo Hồng Huy Đức chân nhân, phu nhân Trịnh Thị Liên hiệu Diệu Tuyên chân nhân, Nguyễn Thị Canh hiệu Diệu Hoa chân nhân, cúng 3 quan.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 222 trang tài liệu này.

Thân mẫu Lê Thị Soi nay cải là Hoàng Thị Hai hiệu là Diệu Tịnh kiên cố chân nhân cúng 2 quan.

Trịnh Thị Ngọc Liêu hiệu Diệu Vân Mỹ Hiền chân nhân cúng tiền 9 mạch Trịnh Thị Ngọc Du hiệu Diệu Lan chân nhân cúng 1 quan

Bia đá thế kỷ XVII của một số chùa ở ngoại thành Hà Nội (khảo sát 10 huyện phía tây và phía nam Hà Nội) - 20

Trịnh Thị Ngọc Thiều hiệu Diệu Bảo chân nhân cúng 1 quan Phu nhân của ông Trịnh Độ là Nguyễn Thị Thám

Nguyễn Thị Nguyên hiệu Diệu Tiến cúng 5 mạch

Phạm Thị Luận ở xã Đông Biện hiệu Diệu thuộc cúng 5 mạch Trịnh Thị Chúc hiệu Diệu Trưởng ở xã Ngân Bôi cúng 5 mạch

Cung tần Phan Thị Uẩn hiệu Diệu Hiền chân nhân ở xã Thu Hoạch huyện Thiên Lộc cúng 2 quan.

Cung tần Vũ Thị Yến hiệu Viên Thông chân nhân ở thôn Đan Minh xã BIện Hạ huyện Cẩm Thuỷ cúng 5 quan.

Thân mẫu Hà Thị Bạch hiệu Diệu Thanh chân nhân cúng 5 quan. Em trai là Phạm Vượng cùng vợ là Trần Thị May cúng 2 quan

Cung tần Vũ Thị Nên hiệu Diệu Bảo chân nhân ở xã Phá Lãng huyện Lang Tài cúng 6 mạch.

Vũ Thị Thuỳ hiệu Diệu Đông chân nhân cúng 6 mạch Vũ Thị Lạt hiệu Diệu Tiên chân nhân cúng 6 mạch Vũ Thị Đô cúng 3 mạch

Cung tần Nguyễn Thị Hân ở xã Xích Đằng huyện Kim Động cúng 2 quan.

Cung tần Vương Thị Ngọc Chu hiệu Diệu Lộc chân nhân ở xã Hương Canh huyện Đan Phượng cúng 2 quan

Cung tần Đào Thị Ngọc Bằng ở xã Đôn Thư huyện Thanh Oai cúng 1 quan Cung tần Nguyễn Thị Ngọc Giảng hiệu Diệu Thọ chân nhân xã Khê Tang

cúng 1 quan.

Ngày tốt tháng 3 nhuận năm Chính Hoà 7 (1686).

VI. BIA CHÙA HƯNG GIÁO (TAM HƯNG- THANH OAI- HÀ NỘI)6 1. Bia số 1:

- Phiên âm: Hưng giáo xã hưng phúc tự cổ tích danh lam tu tạo thạch bi: Phù! Bi giả cái cổ tích dĩ. Tích Hoàng Đế chế lập thạch bi kỳ phúc đức thư truyền vạn thế. Tư phụng cụ tôn đức Thái quốc lão phủ, đức quận chúa tu tạo Hưng Phúc tự, công đức viên mãn, tái mãi điền cúng dàng tam bảo tại Hưng Phúc tự. Kỳ công nguy nguy hưng dữ thiên địa cửu trường, như nhật nguyệt ích dĩ thăng hằng; kỳ tâm khấn thành tắc chư Phật chứng minh. Đức thái quốc lão phủ, đức quận chúa, ức vạn niên vô cương chi thọ, phúc khánh diên trường. Đĩnh sinh quế tử lan tôn, đặc xuất kim cho ngọc diệp, cộng bằng Phật lực cánh thiêm ngũ phúc chi kỳ trù. Tự tư dĩ hậu nhất tâm cung kính, vạn đại tôn sùng. Như bản xã bất y đoan ngôn sinh tâm bột minh khi mạn, phục nguyện hoàng thiên chư phật giám thử đoan ngôn, dĩ tôn sùng Phật pháp, dĩ viên mãn công đức, kỳ bản xã sư như Phật Tỏ, hệ đệ niên xuân thu hiến cúng khách hạ nhất diên. Tư hậu nhật hội lệ kính trần lưu truyền vạn đại,

khai cụ vu hậu thử minh đoan ngôn cẩn từ.

Ứng Thiên phủ, Thanh Oai huyện, Hưng Giáo xã Khang Tỉnh giáp: Lê Lăng, Nguyễn Trị Quốc, Lê Lệnh Đức, Nguyễn Công Thắng, Nguyễn Văn Thao, Lê Khoan, Nguyễn Hải, Nguyễn Văn Tảo, Lê Chân, Lê Nhân Luận, Nguyễn Đức Trạch, Nguyễn Tà Thức, Nguyễn Trị Quảng, Nguyễn Chi Đạt, Nguyễn Hoàn.

Đông Lộc giáp: Lê Đinh Tá, Nguyễn Như Mưu, Nguyễn Đại Bản, Nguyễn Công Vinh, Lê Chân Nho, Nguyễn Nhân Ý, Nguyễn Diên Hiền, Lê Sơn Kỳ, Lê Sơn Cường, Lê Chân Thuần, Bùi Văn Bút, Lê Sơn Quang, Nguyễn Gia Lâm.

Đông Truyền giáp: Nguyễn Thời Đương, Lê Lộc, Nguyễn Hữu Kính, Lê Hữu Bản, Bùi Nhân Quí, Nguyễn Đình Dự, Nguyễn Công Vệ, Lê Hữu Thọ.

Đông Đô giáp: Nguyễn Tố Tòng, Bùi Tín, Nguyễn Châu, Nguyễn Công Khoa, Lục Văn Thông, Nguyễn Tố Tích, Trần Ngoan, Lục Văn Ninh, Lục Văn Tôn.


6 Tư liệu Viện Bảo tồn di tích

Tây Tỉnh giáp: Nguyễn Diên Thọ, Tào Đệ, Bùi Nhân Hởu, Lê Hữu Bảo, Tào Lưu, Tào Bỉnh, Nguyễn Nhân Nhượng, Kiều Khắc Nhuệ, Bùi Văn Triều.

Tây Lộc giáp: Nguyễn Tín Dụng, Bùi Nhân Vực, Bùi Nhân Minh, Bùi Đại Lý, Bùi Nhân Trung, Bùi Nhân Khoan, Bùi Nhân Ân.

Tây Truyền giáp: Lê Như Lan, Lê Như Đại, Nguyễn Đại Tâm

Tây Đô giáp: Nguyễn Đắc Tôn, Phạm Sĩ, Nguyễn KHắc Đôn, Nguyễn Tố Lập, Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Thời Luật, Nguyễn Tố Hạnh. Nhất hương sĩ: Lê Tuấn Điều, Phạm Hoa, Lê Như Thiết, Bùi HOằng, Phạm Duyệt, Nguyễn Công Lâm, Tào Trí Thức, Nguyễn Lễ, Nguyễn Tố Chức, Nguyễn Văn Sức, Nguyến Tố Niên, Lê Công Trạc, Kiều Khắc Phục, Lê Phúc, Nguyễn Văn Trí, Nguyễn Tuấn Ngạn, Nguyễn Tố Công, Lê Sơn Đăng, Bùi Nhân Thông, Bùi

Văn Lý, Lê Hữu Khánh, Nguyễn Đại Trị.

Đại Việt quốc, Thanh Hoa thừa tuyên, Hà Trung phủ, Tống Sơn huyện, Đồng Tiền trang hội chủ Thái quốc lão phủ Mai Thị Ngọc Miêu pháp hiệu Minh Tiến, mãi điền cúng dàng nhị mẫu nhị sào nhất thử điền tam thửa nhất mẫu nhị sào toạ lạc Trầm Lẫm xứ. Đông tây tứ chí y bản điền nội. Nhất thửa điền tam sào toạ lạc Mạn Sa xứ, đông tây tứ chí y bản điền nội. Nhất thửa điền nhị thửa nhị sào thất xích ngũ thốn toạ lạc Trầm Lẫm xứ, đông tây tứ chí y bản điền nô. Nhất thửa điền nhất sào nhất xích ngũ thốn nhị sào toạ lạc Trầm Cạn xứ, đông tây tứ chí y bản điền nội. Nhất thửa điền thập nhị xích toạ lạc La Cội xứ, đông tây tứ chí y bản điền nội. Gia Miêu Ngoại trang nhất hội chủ Quận chúa Nguyễn Thị Ngọc Thiên pháp diệu Đức Nhân mãi điền cúng dưỡng nhị mẫu nhất thửa điền, nhị thửa tứ sào thập xích ngũ thốn toạ lạc Đà Cội xứ, đông tây tứ chí y bản điền nội. Nhất thửa điền nhất sào tam xích toạ lạc áo Đen xứ, đông tây tứ chí y bản điền nội. Nhất thửa điền nhất sào toạ lạc Cần Hạnh xứ đông tây tứ chí y bản điền nội. Nhất thửa điền nhất sào tam xích toạ lạc áo Đen xứ, đông tây tứ chí y bản điền nội. Nhất thửa điền nhất sào toạ lạc Cần Hạnh xứ đông tây tứ chí y bản điền nội, nhất thửa điền, nhị thửa tam sào toạ lạc áo Đen xúe đông tây tứ chí y như khế ước.

Nhất công đức Hà Trung phủ, Tống Sơn huyện, Đồng Tiền trang Tống Thị Ngọc Chi pháp hiệu Minh Bổ mãi điền nhất sào tịnh đồng oa nhất khẩu dưỡng Hưng Phúc tự.

Phủ Bình phủ Vò Nhai huyện Ma Nê xã Dương Thị Thu pháp hiệu Minh Thái mãi điền nhất sào cúng dưỡng Hưng Phúc tự. Nhất bản xã sỉ nguyên sỉ tuấn pháp tự Huyền Phúc tiền ngũ quan. Nhất hưng công bản tự Sinh Quả xã thiền sự Nguyễn Như Cương tự Mậu Thái, môn đồ Bùi Thị Lỗi hiệu Mậu Duyên, Lê Tam nãi tiền nhị quan. Cổ Đam xã Vị Lộc hầu Trịnh Công Minh tự Minh Trí, thê Nguyễn Thị Trình hiệu Minh Tín, thượng niên dĩ hữu công đức tiền ngũ quan chí tư niên công đức mãi điền thập quan, khánh tán tiền nhất quan. Nguyễn Thiên thê Trần Thị Tịnh tiền ngũ mạch. Lưu Khê xã Nguyễn Sĩ Đăng tự Chân Phúc Thái, Nguyễn Thị Ngọc Diệp tiền ngũ mạch. Úc Dã xã Vũ Luân thê Nguyễn Thị Vi tiền nhất quan.

Vĩnh Tộ cửu niên thất nguyệt thập bát nhật.

- Dịch nghĩa:

Bia ghi việc tu sửa danh lam cổ tích chùa Hưng Phúc xã Hưng Giáo

Ôi! Dựng bia là để ghi lại những sự tích từ cổ xưa vậy. Ngày xưa nhà Vua cho dựng bia ghi lại phúc đức của tổ tiên, để truyền mãi cho muôn đời. Nay vâng lệnh đức Thái quốc lão phủ, đức quận chúa đã tu sửa chùa Hưng Phúc, công việc đã hoàn tất lại mua thêm ruộng để cúng tiến tam bảo ở chùa Hưng Phúc. Công đức ấy thật cao vời vợi, sẽ còn mãi mãi với trời đất, như mặt trăng, mặt trời chiếu sáng vậy. Tấm lòng thành kính đó được chư Phật chứng giám. Đức Thái quốc lão phủ, đức Quận chúa sẽ sống mãi muôn đời, phúc khánh muôn thưở, sinh được con quí cháu hiền, cành vàng lá ngọc. Tất cả đều cậy nhờ công sức đức phật, lại càng thêm đắc thọ ngũ phúc. Từ nay về sau sẽ một lòng cung kính, vạn đại tôn sùng. Nếu bản xã ai không theo lời đoan ước mà sinh lòng phản nghịch, nguyện hoàng thiên chư Phật chứng giám; lời đoan ước này khiến cho Phật pháp càng được tôn sùng, công đức càng thêm viên mãn. Bản xã thờ phụng Phật Tổ, hàng năm vào dịp đầu xuân, sắm

sửa một mâm cỗ dâng lễ chúc mừng. Từ nay về sau giữ lệ làm lễ kính dâng, lưu truyền mãi mãi về sau. Tất cả sẽ kê rò ra dưới đây:

Do vậy kính cẩn ghi lại lời đoan ngôn.

Họ tên những người đóng góp công đức ở giáp Khang Tỉnh xã Hưng Giáo huyện Thanh Oai phủ Ứng Thiên gồm các ông: Lê Lăng, Nguyễn Trị Quốc, Lê Lệnh Đức, Nguyễn Công Thắng, Nguyễn Văn Thao, Lê Khoan, Nguyễn Hải, Nguyễn Văn Tảo, Lê Chân, Lê Nhân Luận, Nguyễn Đức Trạch, Nguyễn Tà Thức, Nguyễn Trị Quảng, Nguyễn Chi Đạt, Nguyễn Hoàn.

Giáp Đông Lộc: Lê Đinh Tá, Nguyễn Như Mưu, Nguyễn Đại Bản, Nguyễn Công Vinh, Lê Chân Nho, Nguyễn Nhân ý, Nguyễn Diên Hiền, Lê Sơn Kỳ, Lê Sơn Cường, Lê Chân Thuần, Bùi Văn Bút, Lê Sơn Quang, Nguyễn Gia Lâm.

Giáp Đông Truyền: Nguyễn Thời Đương, Lê Lộc, Nguyễn Hữu Kính, Lê Hữu Bản, Bùi Nhân Quí, Nguyễn Đình Dự, Nguyễn Công Vệ, Lê Hữu Thọ.

Giáp Đông Đô: Nguyễn Tố Tòng, Bùi Tín, Nguyễn Châu, Nguyễn Công Khoa, Lục Văn Thông, Nguyễn Tố Tích, Trần Ngoan, Lục Văn Ninh, Lục Văn Tôn. Giáp Tây Tỉnh: Nguyễn Diên Thọ, Tào Đệ, Bùi Nhân Hậu, Lê Hữu Bảo, Tào

Lưu, Tào Bỉnh, Nguyễn Nhân Nhượng, Kiều Khắc Nhuệ, Bùi Văn Triều.

Giáp Tây Lộc: Nguyễn Tín Dụng, BùiNhân Vực, Bùi Nhân Minh, Bùi Đại Lý, Bùi Nhân Trung, Bùi Nhân Khoan, Bùi Nhân Ân.

Giáp Tây Truyền: Lê Như Lan, Lê Như Đại, Nguyễn Đại Tâm

Giáp Tây Đô: Nguyễn Đắc Tôn, Phạm Sĩ, Nguyễn Khắc Đôn, Nguyễn Tố Lập, Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Thời Luật, Nguyễn Tố Hạnh. Các hương sĩ: Lê Tuấn Điều, Phạm Hoa, Lê Như Thiết, Bùi Hoằng, Phạm Duyệt, Nguyễn Công Lâm, Tào Trí Thức, Nguyễn Lễ, Nguyễn Tố Chức, Nguyễn Văn Sức, Nguyến Tố Niên, Lê Công Trạc, Kiều Khắc Phục, Lê Phúc, Nguyễn Văn Trí, Nguyễn Tuấn Ngạn, Nguyễn Tố Công, Lê Sơn Đăng, Bùi Nhân Thông, Bùi

Văn Lý, Lê Hữu Khánh, Nguyễn Đại Trị.

Hội chủ ở trang Đồng Tiến huyện Tống Sơn phủ Hà Trung thừa tuyên Thanh Hoá nước Đại Việt là Thái quốc lão phủ Mai Thị Ngọc Miêu đã mua 2 mẫu 2 sào

ruộng cúng lễ, 3 thửa 1 mẫu 2 sào ở xứ Trầm Lầm, đông tây bốn phía y như trong sổ, 1 thửa ruộng 3 sào ở xứ Mạn Sa, đông tây bốn phía như trong sổ, 1 thửa ruộng 2 sào 7 thước tấc ở xứ Trầm Lầm, đông tây bốn phía như trong sổ, 1 thửa ruộng 1 sào 7 thước 5 tấc ở xứ Trầm Lạm, đông tây bốn phía như trong sổ, 1 thửa ruộng 2 thước ở xứ Trầm Lạn, đông tây bốn phía như trong sổ, 1 thửa ruộng 2 thước ở xứ La Lộc, đông tây bốn phía như trong sổ.

Bà Quận chúa Nguyễn Thị Ngọc Thiên pháp hiệu Đức Nhân, người trang Gia Miêu Ngoại đã mua ruộng cúng dàng gồm 1 thửa ruộng 2 mẫu, 2 thửa 4 sào 10 thước 5 tác ở xứ Đìa Cội, đông tây bốn phía như trong sổ; 1 thửa ruộng 1 sào 3 thước ở xứ Áo Đen đông tây bốn phía như trong sổ.

Bà Tống Thị Ngọc Chi pháp hiệu Minh Bố người trong Đồng Tiến huyện Tống Sơn phủ Hà Trung đã mua 1 sào ruộng và một nồi đồng cúng vào chùa Hưng Phúc.

Bà Dương Thị Thu pháp hiệu Minh Thái người xã Ma Nê huyện Vò Nhai phủ Phú Bình mua 1 sào ruộng cúng vào chùa Hưng Phúc. Sĩ Nguyên, Sĩ Tuấn pháp tự Huyền Phúc cúng 5 quan tiền, thiền sư Nguyễn Như Cương tự Mậu Thái cùng môn đồ Bùi Thị Lỗi hiệu Mậu Duyền, Lê Tam người xã Sinh Quả đã cúng 2 quan tiền vào bản chùa. Vị Lộc hậi Trịnh Công Minh tự Minh Trí, vợ là Nguyễn Thị Trình hiệu Minh Tín người xã Cổ Đan, năm ngoái đã đóng góp công đức 5 quan tiền, đến năm nay vợ chồng bà lại bỏ ra 10 quan tiền mua ruộng và cúng thêm 1 quan tiền. Ông Nguyễn Thiên vợ Trần Thị Tịnh công đức 5 mạch. Ông Nguyễn Sĩ Đăng tự chân Phúc Thái, bà Nguyễn Thị Ngọc Diệp người xã Lưu Khê công đức 5 mạch, ông Vũ Luân vợ là Nguyễn Thị Vi người xã Úc Dã công đức 1 quan.

Ngày 18 tháng 10 năm Vĩnh Tộ 9 (1627)

VII. CHÙA LA KHÊ (LA KHÊ, VĂN KHÊ, HÀ ĐÔNG, HÀ NỘI)7 1. Bia số 1:

- Phiên âm: Hậu phật bi ký


7 Tư liệu Viện Bảo tồn di tích

Phù! Diên Khánh tự giả vi thiền thiên chi hảo cảnh. Kỳ trung đột xuất nhất khu, ao hồi tứ diện. Thanh long tắc thiên lưu khúc thuỷ, bạch hổ tắc song mão liên châu. Chu triều hữu đại phụ tinh la, huyền Chẩm hữu tiểu khê khảm nhiễu. Chân Sơn Tây chi đệ nhất anh linh dã. Cầu kỳ hữu đại công đức, đại từ bi giả vi năng phối hưởng chi.

Quyến tư! La Khê xã hùng cư vụ liệt, tuấn thái tinh trì. Duy hữu tính Vũ huý Trật, tự Thọ Chính hiệu Đức Nghiêu, thê tính Nguyễn, huý Bích, hiệu Diệu Ngọc, cầm sắt cổ hoà, nội ngoại minh phục. Nhất tắc hiếu hữu từ ái gia đào nhân nhượng chi phong, nhất tắc cần kiệm tảo tần tục hoákhuê môn chi mỹ. Kỳ ư gia sản dã, tiền tắc luỹ luỹ an hiệu, túc tắc trần trần tương nhân. Phú ký hà gia, phúc vưu dương tập. Tạo kiều tu quán huệ thí Kiều tử chi tâm, tế phạp chẩn bần ân bố Trương côn chi chí. Đức cập quảng hĩ, nhân giai kính chi. Kỳ viễn nhi Quốc Oai, ứng Thiên, Trung Đô đẳng phủ huyện tổng xã các vãi văn kỳ phong nhi mộ, ưng bảo vi Trùm trưởng thượng. Kỳ cận nhi bản xã quan viên xã thôn trưởng cập văn hội hương lão thượng hạ đẳng bị kỳ trạch nhi lạc ưng bảo vi Hậu phật sinh.

Nhân thử hứa dĩ điền các xứ sở cộng ngũ mẫu dữ bản xã các giáp quân phân canh chủng, vĩnh vi hương hoả, lưu truyền vạn đại kỵ lạp. Do thị dân lạc kỳ lạc nhi tiện kỳ tiện hĩ. Chân sở vị hữu chí thiệu chi công nhi nhân tư mộ chi dũ cửu nhi bất vong dã. Tín tri Vũ Nguyễn dũ la phúc tuỵ kỳ thân thân cung khang thái, thọ mệnh diên trường. Đắc ưng giả đa, sở cập gia viễn. Thượng nhi tổ tiên nội tổ cao tổ khảo tự Thống Chính, tỉ hiệu Từ Ân, Tằng tổ khảo tự Phúc An, tỉ hiệu Mỹ Hạnh. Tổ khảo tự Phúc Hào, tỉ hiệu Từ Thịnh. Khảo tự Thọ Diên, thuỵ Đức Cao, tỉ hiệu Từ Quang. Ngoại tổ cao tổ khảo tự Phúc Khê, tổ hiệu Trinh Thuận. Tằng tổ khảo tự Phúc Tráng, tỉ hiệu Từ Thuận. Tổ khảo tự Phúc Thọ, tỉ hiệu Huệ Dưỡng.

Ngoại tộc nội tổ cao tổ khảo tự Thuần Hựu tỉ hiệu Từ Thân. Tăng tổ Khảo tự Đức Kim, tỉ hiệu Từ Ân. Tổ khảo tự Thọ Vinh, tỉ hiệu Từ Thịnh. Khảo tự Thọ Hải, tỉ hiệu Mỹ Thái, hiệu Từ Tâm, Ngoại tổ tằng tổ khảo tự Đôn Cẩn, tỉ hiệu Từ ý. Tổ khảo tự Nghĩa Trai, tỉ hiệu Từ An. Đâu suất tiêu dao cộng hưởng.

Xem tất cả 222 trang.

Ngày đăng: 23/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí