Bảo Vệ Thông Qua Các Thiết Chế Gia Đình Và Xã Hội


2.2.2.2. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân

Cơ chế bảo vệ quyền con người băn

g tố tun

g hin

h sự kết thúc bằng

hoạt động xét xử của tòa án. Chính vì vậy, vai trò của tòa án và vai trò của giai đoạn xét xử trong tố tụng hình sự là hết sức quan trọng. Các hoạt động điều tra, truy tố đóng vai trò chuẩn bị, tạo cơ sở cho hoạt động xét xử của tòa án. Trong tố tụng hình sự, giai đoạn xét xử của tòa án luôn đóng vai trò trung tâm. Giai đoạn xét xử bắt đầu bằng việc thụ lý vụ án hình sự và kết thúc bằng bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án. Để đảm bảo cho tòa án đảm nhiệm đúng chức năng, vai trò, nhiệm vụ của mình là xét xử, BLTTHS có quy định rất cụ thể về các nguyên tắc của việc xét xử, quy định rõ thẩm quyền của tòa án, các quyền, nghĩa vụ, các hoạt động tố tụng cụ thể của thẩm phán, hội thẩm nhân dân và những người tham gia tố tụng khác tại giai đoạn xét xử. Cơ chế hoạt động của tòa án trong TTHS luôn đảm bảo tính độc lập của thẩm phán và hội thẩm nhân dân và tuân thủ triệt để các nguyên tắc của TTHS. Tất cả những điều đó nhằm mục đích đảm bảo không tội phạm nào không bị xét xử và mọi người đều có quyền được xét xử bằng một tòa án công bằng hay nói cách khác là quyền có bản án công bằng.

2.2.3. Bảo vệ thông qua các thiết chế gia đình và xã hội

Các thiết chế gia đình - xã hội được coi là phương tiện bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS chính là sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, gia đình trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có bị can, bị cáo là NCTN.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.

Về phía gia đình, với vai trò là tổ ấm, là chỗ dựa tinh thần to lớn của lứa tuổi chưa thành niên, bằng chính tình cảm, lòng bao dung, độ lượng của các thành viên trong gia đình sẽ làm mất đi những mặc cảm tội lỗi mà các em đã gây ra. Sự động viên giúp đỡ của gia đình sẽ tiếp thêm sức mạnh giúp cho các em thoát khỏi sự cám dỗ của cuộc sống, giáo dục các em phát huy tối đa


Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam - 10

khả năng và tính tích cực trong bản thân, từ đó khắc phục được thói hư tật xấu, trở thành con người lương thiện trong xã hội.

Về phía các cơ

quan nhà nước,

các tổ

chức xã hội, với chức năng,

nhiệm vụ của mình (trong lĩnh vực chăm sóc, bảo vệ Trẻ em, như Cục Bảo vệ và chăm sóc Trẻ em), phối hợp với các tổ chức xã hội (như Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội bảo vệ quyền Trẻ em…) sẽ tham gia trong quá trình giải quyết vụ án hình sự với tư cách là Người giám hộ, Người bào chữa, Hội thẩm nhân dân… Với những hiểu biết, kỹ năng của mình, họ sẽ giúp NCTN nhận thức rõ hơn về trách nhiệm phải gánh chịu khi đã thực hiện hành vi phạm tội; hoặc, bảo vệ cho NCTN tránh khỏi các hành vi xâm hại do Cơ quan/Người tiến hành tố tụng gây ra trong quá trình tiến hành.


2.3. KINH NGHIỆM BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA

NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI

TỤNG HÌNH SỰ

CỦA MỘT SỐ

2.3.1. Khái quát về

một số

phương thức bảo vệ

người chưa

thành niên trong tố tụng hình sự trên thế giới

Phần này, tác giả nghiên cứu mô hình bảo vệ người chưa thành niên trong TTHS đã và đang hoạt động trên thế giới. Các mô hình này được lựa chọn nghiên cứu vì mỗi một mô hình đại diện cho một phương pháp pháp luật. Có thể tìm hiểu qua một số Quốc gia điển hình:

Thái Lan, đã có hệ thống tư pháp riêng cho thanh thiếu niên từ năm 1951. Đạo luật về Toà gia đình và người chưa thành niên hiện nay đang áp dụng đã được ban hành từ năm 1991 [33]. Đạo luật này đã tạo ra một hệ thống Toà án chuyên trách có quyền tài phán đối với hai nhóm vụ án chính là:

1) những vụ án có trẻ em vi phạm pháp luật; và 2) những vụ án liên quan tới các vấn đề gia đình bao gồm ly hôn, tiền cấp dưỡng nuôi con, quyền nuôi con và thăm nom con.


Hiện Thái Lan đang thử nghiệm một chương trình mới nhằm ngăn

ngừa trẻ em thực hiện hành vi phạm tội và giảm tỷ lệ tái phạm trong nhóm thanh thiếu niên vi phạm pháp luật. Chương trình này được các Thẩm phán của Toà Gia đình và Trẻ em xây dựng với tên gọi là “Mô hình mới”. Chương trình đã tạo nên một chuỗi các biện pháp liền mạch từ phòng ngừa tội phạm chưa thành niên tới xử lý chuyển hướng cho các vi phạm ít nghiêm trọng và kế hoạch điều chỉnh các hành vi bạo lực cho người chưa thành niên thực hiện các hành vi phạm pháp nghiêm trọng. Báo cáo của các Thẩm phán tham gia vào dự án thí điểm Mô hình mới này đã chỉ ra rằng tỷ lệ tái phạm trong thanh thiếu niên được dự án hỗ trợ đã giảm mạnh (từ 12.31% xuống còn 1.86%) kể từ khi dự án bắt đầu được thực hiện năm 2002.

Canada [130], có Đạo luật về Tội phạm chưa thành niên năm 1908 gần

như hoàn toàn dựa theo Đạo luật về Toà Người chưa thành niên của bang

Illinois, Mỹ. Đạo luật về Thanh thiếu niên Vi phạm pháp luật (1984-2003) đã chuyển hướng nhấn mạnh hơn vào khía cạnh xử phạt và cùng với đó cũng trao quyền tố tụng rộng rãi hơn cho trẻ em vi phạm. Năm 2003, Canada lại một lần nữa sửa đổi, thông qua Đạo luật về Tư pháp Hình sự đối với Thanh

thiếu niên (YCJA., S.C. 2002). Đạo luật Tư

pháp Hình sự

đối với Thanh

thiếu niên của Canada là một mô hình có nhiều điểm đáng học tập. Bởi lẽ:

Thứ nhất, Đạo luật này đã tạo ra một hệ thống tư pháp riêng biệt cho thanh

thiếu niên phù hợp với các quy định quốc tế;

Thứ

hai,

Đạo luật đã giúp

chuyển hướng cho một số lượng rất lớn người vi phạm lần đầu và vi phạm ít nghiêm trọng ra khỏi hệ thống tư pháp chính thức thông qua việc áp dụng các nguyên tắc tư pháp phục hồi và các biện pháp thay thế tại cộng đồng;

Thứ

ba,

Đạo luật này giới hạn việc giam giữ

người chưa thành niên chỉ

được áp dụng với những trường hợp phạm tội nghiêm trọng.

Philippin, Đạo luật về Tư pháp và Phúc lợi Người chưa thành niên

2006 đã vạch ra một hệ thống xử lý chuyển hướng chi tiết, linh hoạt. Các phương án này bao gồm buộc bồi thường, buộc xin lỗi, buộc chịu giám sát,


nhận tham vấn cho người chưa thành niên và gia đình, buộc tham gia các khoá tập huấn về các chủ đề như chế ngự nóng giận, giải quyết mâu thuẫn, buộc

lao động phục vụ cộng đồng, và buộc tham gia các chương trình tại cộng

đồng. Toà án cũng có thể ra lệnh phạt tiền, khiển trách, nộp án phí và buộc đưa vào chăm sóc tập trung hoặc giam giữ.

New Zealand, năm 1989 đã thông qua Đạo luật về Trẻ em, Thanh thiếu niên và Gia đình [107]. Đạo luật này điều chỉnh các vấn đề trẻ em và thanh thiếu niên cần được chăm sóc và bảo vệ cũng như trẻ em vi phạm pháp luật. Đạo luật này là một nỗ lực ban đầu nhằm lồng ghép tinh thần của Công ước về Quyền trẻ em vào luật pháp bản địa và đánh giá sự đóng góp của những thành viên trong cộng đồng thổ dân đối với cuộc sống của trẻ em, các gia đình và cộng đồng. Đặc biệt, New Zealand đã đạt được tiếng vang lớn trong việc áp dụng biện pháp họp gia đình và các phương pháp truyền thống bản địa vào giải quyết các mâu thuẫn có liên quan tới trẻ em cần được chăm sóc và bảo vệ và trẻ em vi phạm pháp luật. Rất nhiều nước trên thế giới trong đó có Thái Lan đã kế thừa những biện pháp này [104].

New South Wales [134], có hệ thống luật pháp chủ yếu dựa trên thông luật của Anh. Theo thời gian, NSW đã xây dựng được một hệ thống luật phức tạp trong xử lý trẻ em và thanh thiếu niên. Hệ thống này bao gồm Đạo luật về Thanh thiếu niên vi phạm pháp luật, Đạo luật tố tụng hình sự trẻ em, Đạo luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em và thanh thiếu niên, và Đạo luật về cho nhận con nuôi năm 2000... Mục tiêu của Đạo luật về Thanh thiếu niên phạm pháp là nhằm chuyển hướng người chưa thành niên ra khỏi hệ thống xét xử chính thức và thúc đẩy các mục tiêu tư pháp mang tính phục hồi và cân bằng. Đạo luật này được áp dụng đối với các vi phạm nhỏ có thể xét xử chiếu lệ và cũng có thể áp dụng để xử lý một số hành vi có thể truy tố nhưng ở mức độ ít nghiêm trọng. New South Wales đã có hệ thống pháp luật rất toàn diện về tất cả các lĩnh vực trong mối quan hệ tương tác giữa các cơ quan nhà nước với trẻ em và gia đình các em.


Nht Bn, đã có một hệ thống tư pháp riêng cho trẻ em vi phạm pháp luật từ năm 1949. Luật Người chưa thành niên của Nhật Bản hoàn toàn dựa trên nền tảng phúc lợi để điều chỉnh, đặc biệt là đối với trẻ em dưới 14 tuổi. Gần đây, cùng với xu hướng tăng của tội phạm và một số vụ phạm tội do trẻ em thực hiện gây chấn động lớn, Nhật Bản đã tăng cường quyền lực của nhà nước trong việc xử lý các bị can thanh thiếu niên, đặc biệt là với quyết định về việc giảm độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và kéo dài thời hạn cho phép giữ người chưa thành niên trong cơ sở giam giữ [122]. Luật sửa đổi cũng quy định thiết lập một hệ thống mới có chức năng chuyển các vụ án nghiêm trọng từ Toà Gia đình sang Toà dành cho người trưởng thành. Năm 2004, Uỷ ban về Quyền Trẻ em của Liên hợp quốc đã bày tỏ quan ngại về xu hướng thay đổi này và kết luận rằng việc áp dụng thủ tục tố tụng hình sự là “không phù hợp đối với trẻ em”.

Scottland [126], đại diện mô hình mang tính phúc lợi thuần tuý cho trẻ em có nguy cơ cao, đã xây dựng một hướng tiếp cận đặc biệt đối với trẻ em có nguy cơ với sự ra đời hệ thống xét xử các vụ án trẻ em của Scottland từ 1971. Đóng góp độc đáo của mô hình này là đã chia tách chức năng điều tra tìm hiểu sự thật về vụ việc ra khỏi chức năng xử lý vụ việc. Chức năng tìm hiểu sự thật được giao cho Toà án trong khi mô hình này lại dựa vào các thành viên trong cộng đồng để quyết định về những hành động cần thiết để bảo vệ và/hoặc phục hồi cho trẻ em và thanh thiếu niên.

Cng hoà Séc [120], là một quốc gia có chủ quyền mới được thành

lập, đã thông qua luật mới về các vấn đề người chưa thành niên có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2004 [32]. Luật này được xây dựng dựa trên những điểm ưu việt của mô hình Toà án phúc lợi, nhưng cũng lồng ghép một số xu hướng mới hơn trong tư pháp người chưa thành niên như việc áp dụng các nguyên tắc tư pháp phục hồi và tăng cường vai trò của cán bộ giám sát thử thách trong việc quản lý giám sát thanh thiếu niên được chuyển hướng xử lý


ra ngoài hệ thống tư pháp chính thức hoặc được áp dụng các biện pháp thay thế cho hình phạt tù. Với mô hình hiện nay, Cộng hoà Séc đang có một hệ thống gần như đồng nhất với những hệ thống đã được thiết lập tại các quốc gia Châu Âu khác, đã tiếp thu triết lý khởi phát của Toà án người chưa thành niên - đó là thừa nhận sự khác biệt về mặt phát triển giữa thanh thiếu niên và người trưởng thành. Bên cạnh đó, luật này cũng đã lồng ghép những hướng tiếp cận mới về tư pháp phục hồi trong xử lý người chưa thành niên phạm pháp.

Hoa Kỳ, không có một hệ thống Toà người chưa thành niên thống nhất mà từng bang có trách nhiệm thiết kế và thực hiện hệ thống Toà riêng của mình. Do đó phương án hiệu quả nhất của chính quyền liên bang trong việc tác động vào chính sách tư pháp người chưa thành niên của các bang là đặt các

điều kiện đi kèm với những khoản ngân quỹ mà liên bang cấp cho chính

quyền các bang. Dù đại đa số các bang vẫn đang duy trì quyền tài phán của Toà án người chưa thành niên đối với cả công tác bảo vệ trẻ em lẫn tư pháp người chưa thành niên, nhưng hiện cũng đã có một số bang và các đơn vị cấp dưới bang bắt đầu đưa vào thử nghiệm mô hình Toà gia đình.

Nhn xét: Mặc dù các phần tóm tắt sơ lược trên đây không thể

nắm bắt và thể hiện được tất cả các khía cạnh của một hệ thống bảo vệ của các quốc gia, nhưng những đặc điểm riêng có của từng mô hình có

thể

có tác dụng để

tham khảo, nghiên cứu, vận dụng cho phù hợp với

điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam. Cũng qua nghiên cứu các mô hình

này, tác giả

nhận thấy, để

bảo vệ

hiệu quả

quyền và lợi ích hợp pháp

của NCTN, bên cạnh xây dựng, hoàn thiện thể

chế

đặc thù thì việc tổ

chức cơ

quan tiến hành tố

tụng đặc thù là rất quan trọng, trong đó, mô

hình Tòa chuyên trách NCTN là một xu hướng tất yếu.

2.3.2. Một số mô hình Tòa án chuyên trách người chưa thành niên trên thế giới



lợi)

2.3.2.1. Mô hình Toà cho Trẻ em có nguy cơ (Mô hình An sinh Phúc


Mô hình hệ thống tư pháp riêng cho trẻ em được xây dựng lần đầu tiên

tại Cook County, bang Illinois (Mỹ) vào năm 1899. Mô hình Toà án người chưa thành niên mới mẻ này được trao quyền tài phán đối với 3 nhóm trẻ em: trẻ em bị cáo buộc phạm tội; trẻ em bị xâm hại, sao nhãng hoặc bóc lột; và trẻ em không còn sự chăm sóc của cha mẹ do cha mẹ đã mất, bị khuyết tật hoặc các lý do khác [117]. Chính mô hình Trẻ em có nguy cơ này đã trở thành thành phần cốt lõi của rất nhiều hệ thống Toà án người chưa thành niên hiện đang được sử dụng trên thế giới.

Hướng tiếp cận này trong việc xử lý những hành vi vi phạm của thanh thiếu niên thường được gọi là mô hình “phục hồi” hay mô hình “an sinh phúc

lợi”.

Hình thái ban đầu của Toà án đã được tổ

chức phù hợp để đáp

ứng

những mục tiêu: 1) các phiên toà luôn được xét xử kín để bảo vệ thông tin nhận diện của trẻ em và cho phép những em này khi trưởng thành có một “lý lịch sạch”; 2) Toà án người chưa thành niên hoạt động mang tính không chính thức hơn so với Tòa án dành cho người trưởng thành rất nhiều trong đó Thẩm phán đóng vai trò của một vị phụ huynh nghiêm khắc hơn là vai trò người bảo vệ pháp luật; 3) các cán bộ giám sát thử thách và cán bộ thi hành án được trao quyền tự chủ rộng rãi trong việc quyết định áp dụng các biện pháp phục hồi cho người chưa thành niên vào lúc nào và theo cách nào. Nhưng chính việc trao quyền quyết định này lại dẫn đến tình trạng có những thanh thiếu niên bị buộc sống trong các cơ sở giam giữ trong thời gian dài hơn thời hạn áp dụng với người trưởng thành vi phạm cùng một tội danh.

Trong những năm 60 của thế kỷ trước, Toà án Tối cao Hợp chủng quốc Hoa kỳ đã ra một phán quyết quan trọng đã làm thay đổi phương thức hoạt động của các hệ thống Toà án người chưa thành niên trên toàn nước Mỹ và nhiều nơi khác trên thế giới. Trong vụ án In re Gault, Toà án đã kết luận rằng người vi phạm chưa thành niên đã phải chịu tình cảnh “trên đe dưới búa”


[116]. Một mặt, người chưa thành niên có ít quyền hơn so với người trưởng thành. Mặt khác, các cán bộ giám sát chấp hành thử thách lại không có được những nguồn lực cần thiết để thực hiện trách nhiệm hỗ trợ phục hồi cho người chưa thành niên. Do đó, nhiều trẻ em đã bị tước tự do trong những khoảng thời gian dài mà không được nhận bất cứ một dịch vụ điều trị hay phục hồi nào. Trong những vụ án sau đó của Gault, Toà án đã quy định trẻ em vi phạm pháp luật có một số quyền lợi tố tụng nhất định như quyền được có Luật sư, quyền được xuất hiện trước Toà và đối chất với nhân chứng, quyền được im lặng, và quyền được cơ quan công quyền chứng minh rằng vụ án liên quan đến họ được kết luận trên cơ sở “không còn nghi vấn thực tế nào nữa”.


phạt)

2.3.2.2. Mô hình Tư pháp Người chưa thành niên (Mô hình Trừng


Từ đầu thập kỷ 70 của thế kỷ trước, một số nước phương Tây bắt

đầu chuyển dần từ mô hình này sang thay thế bằng những hướng tiếp cận mang tính chất trừng phạt đối với tội phạm do người chưa thành niên thực hiện, tức là giảm sự tập trung vào nhu cầu của người chưa thành niên và tăng tập trung vào bản chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Có một số lý do dẫn đến xu hướng thay đổi này như sau: 1) do xu hướng ngày càng gia tăng của tội phạm nguy hiểm mà người chưa thành niên thực hiện tại những quốc gia này trong những năm từ 1950 đến 1980; 2) các phương tiện truyền thông đại chúng đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm dấy lên những mối lo ngại của xã hội về tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện bằng việc tập trung đưa tin một số lượng nhỏ (không mang tính đại diện) các vụ án nổi bật [128]. Phong trào nhấn mạnh về trừng phạt trong xử lý tội phạm người chưa thành niên này cũng diễn ra trong các quốc gia Anglo- Saxon khác bao gồm Canada, Anh, và xứ Wales [127].

Trong những năm cuối thế kỷ 20, các quốc gia đã rời bỏ mô hình an sinh phúc lợi đang xem xét lại quyết định này của mình. Nguyên nhân có hiện

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/11/2022