người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc đại diện hợp pháp của họ có thể lực chọn, yêu cầu hoặc thực hiện quyền thay đổi.
Ví dụ: Vụ án Trộm cắp tài sản, bị can: Vũ Thế Bình, xảy ra tại thành phố Hạ Long (Quảng Ninh) ngày 6/10/2010. Thời điểm phạm tội, bị can (sinh ngày 5/12/1992), chưa đủ 18 tuổi. Khi vụ án được khởi tố, điều tra, trong suốt giai đoạn này giữa VKS và CQĐT CA Thành phố Hạ Long cho rằng bị can đã đủ 18 tuổi nên không tiến hành các thủ tục trợ giúp pháp lý cần thiết cho Bình, mặc dù ở tại đây có Trung tâm trợ giúp pháp lý của tỉnh Quảng Ninh và có đội ngũ luật sư khá hùng hậu.
- Trong trường hợp Luật sư do gia đình bị can, bị cáo yêu cầu, khó khăn mà luật sư thường gặp trong thực tế như sau:
Một là, thủ nhận bào chữa
tục phiền hà, gây khó khăn trong việc cấp Giấy chứng
Những thủ
tục phiền hà có thể
là: giấy yêu cầu luật sư
phải của
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo Vệ Thông Qua Các Thiết Chế Gia Đình Và Xã Hội
- Các Quy Định Và Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Trong Việc Bảo Vệ Quyền Và Lợi Ích Hợp Pháp Của Người Chưa Thành Niên
- Trong Việc Bắt, Tạm Giữ, Tạm Giam Người Chưa Thành Niên
- Về Năng Lực Cán Bộ Tiến Hành Tố Tụng Trong Giải Quyết Vụ Án Hình Sự Liên Quan Đến Người Chưa Thành Niên
- Xu Hướng Quốc Tế Và Quan Điểm Của Đảng, Nhà Nước Việt Nam Về Vấn Đề Bảo Vệ Quyền Và Lợi Ích Hợp Pháp Của Người Chưa Thành Niên Trong Tố Tụng
- Các Nhóm Giải Pháp Nhằm Bảo Vệ Hiệu Quả Quyền Và Lợi Ích Hợp Pháp Của Người Chưa Thành Niên Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.
chính bị can chứ không phải của người đại diện hợp pháp của bị can lựa
chọn, mặc dù bị can đang bị tạm giam? Trong trường hợp này phải thông
qua Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát. Hầu hết các trường hợp sau khi
thông qua Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát lấy giấy yêu cầu luật sư phải
của chính bị can thì Luật sư thường nhận được câu trả lời là: Bị can từ
chối luật sư, hoặc bị can không có ý định mời luật sư, hoặc bị can đã nhận rõ tội trạng của mình nên không mời luật sư v.v… Ngoài ra, Cơ quan điều tra yêu cầu Luật sư cung cấp các loại giấy tờ khác ngoài quy định của pháp
luật (Điều 27 Luật Luật sư), như Cơ quan điều tra yêu cầu nộp thêm
Chứng chỉ hành nghề luật sư (do Bộ Tư pháp cấp), Hợp đồng pháp lý ký giữa luật sư và bị can hoặc người đại diện hợp pháp của bị can v.v… Mặc dù vô lý nhưng Luật sư cũng phải cung cấp thêm các giấy tờ theo yêu cầu của Cơ quan tiến hành tố tụng, nếu không sẽ bị gây rắc rối trong việc xin
cấp Giấy chứng nhận người bào chữa. Ngoài ra, về thời hạn cấp Giấy
chứng nhận người bào chữa ít khi bảo đảm thời hạn đúng 3 ngày như pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Hai là, khi người bào chữa muốn gặp riêng các em ở nơi giam giữ, thủ tục hành chính rất phiền hà như phải có giấy giới thiệu, giấy phép của Cơ quan điều tra, nên nhiều luật sư rất ngại do đó không gặp được bị can. Hơn nữa, thực tế hiện nay cho thấy khi kết thúc giai đoạn điều tra, chuyển sang giai đoạn quyết định truy tố hoặc xét xử, hầu hết các cơ quan tiến hành tố tụng địa phương đều yêu cầu làm lại thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa, dẫn đến phiền hà, trở ngại, trong khi đó yêu cầu này không được quy định trong BLTTHS.
Ba là, trong nhiều trường hợp, do các Điều tra viên không muốn có luật sư trong vụ án nên đã bảo với NCTN rằng muốn có luật sư thì chi phí thù lao trả cho luật sư rất cao nên các em tự nguyện viết giấy từ chối luật sư bào chữa.
Bốn là, Tại Điểm g Khoản 2 Điều 58 BLTTHS quy định, người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên trong thực tế bào chữa, việc đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án chỉ có thể được thực hiện khi hồ sơ vụ án đã được chuyển sang Tòa án có thẩm quyền xét xử. Còn ở giai đoạn điều tra thì việc người bào chữa được đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án là rất khó khăn, đã cản trở hoạt động bào chữa của luật sư theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, từ phía luật sư
Qua các cuộc hội thảo do UNICEF và Viện kiểm sát nhân dân tối cao phối hợp tổ chức, trong khuôn khổ thực hiện Dự án "Tư pháp thân thiện với NCTN", nhiều ý kiến cũng bày tỏ sự quan ngại về vấn đề đào tạo và năng
lực của các luật sư được cung cấp cho người chưa thành niên Việt Nam.
phạm tội tại
Có ý kiến cho rằng mặc dù luật sư thường không được đào tạo để có
những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục về tội phạm
NCTN hoặc không có kiến thức và phương cách làm việc hiệu quả với người chưa thành niên phạm tội [21].
Có ý kiến khác cho rằng, nguyên nhân chính lại từ phía người bào chữa, đó là, chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình mà pháp luật đã quy định, chưa kịp thời có những đề nghị với các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc chưa thực hiện triệt để việc tham gia khi lấy lời khai của NCTNPT, tiến hành thu thập các tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này, từ các cơ quan, tổ chức cá nhân... để xuất trình đến các cơ quan tiến hành tố tụng và làm căn cứ chuẩn bị cho việc bào chữa của mình hoặc có một số trường hợp người
bào chữa chưa tuân thủ
các nghĩa vụ
được quy định tại khoản 3 Điều 58
BLTTHS, chưa sử dụng mọi biện pháp do luật định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định NCTN vô tội hoặc những tình tiết làm giảm TNHS cho họ, thậm chí từ chối bào chữa mà không có lý do chính đáng...
Cuối cùng, đối với luật sư chỉ định, thông thường các cơ quan tiến hành
tố tụng tạo điều kiện thuận lợi cho các luật sư tham gia bào chữa, nhưng
nhiều luật sư lại chưa có thái độ tích cực khi tham gia tố tụng, miễn cưỡng tham gia cho có lệ. vẫn còn xảy ra tình trạng do nhận thức việc bào chữa là theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng nên không có thái độ tích cực, không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án..., thậm chí có trường hợp vô trách nhiệm lấy lý do quá bận việc mà chỉ gửi báo cáo tới điều tra viên [36] hoặc gửi bản bào chữa chứ không tham dự phiên tòa hoặc có trường hợp có mặt tại phiên toà nhưng chỉ đơn thuần là thay mặt bị cáo chưa thành niên xin giảm nhẹ án
chứ
chưa thực sự
bảo vệ
quyền lợi cho các em... Điều này đã khiến cho
quyền bào chữa của NCTN chưa được bảo đảm, phiên tòa thiếu đi sự tranh luận dân chủ, công khai. Nguyên nhân chính của tình trạng trên, theo một số luật sư chỉ định cho biết, do không có đủ động lực về kinh tế để đảm nhiệm vụ án.
Nhiều đoàn luật sư khi nhận được yêu cầu, đề nghị cử người bào chữa chưa có thái độ tích cực hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng, còn có tình trạng chậm trễ trong việc cử người bào chữa, gây không ít khó khăn cho công tác giải quyết vụ án của các cơ quan chức năng.
Thứ ba, từ phía NCTN và Gia đình của họ
Bên cạnh một số sự vi phạm của cơ quan tiến hành tố tụng, thì người Việt Nam nói chung, NCTN nói riêng chưa có thói quen có luật sư trong các vụ án. Nhiều trường hợp các em biết mình có quyền được mời luật sư bào chữa nhưng cũng không ít trường hợp các em không biết mình có quyền được Cơ quan điều tra yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa.
Thực tế cho thấy, NCTN chưa thể thấy hết ý nghĩa và tầm quan trọng của việc bào chữa nên đôi khi họ suy nghĩ rất giản đơn, coi nhẹ việc mời người bào chữa cho mình.
Các kiểm sát viên cũng cho biết đôi khi người chưa thành niên phạm tội hoặc cha mẹ các em từ chối có luật sư bào chữa. Điều này có thể gây khó khăn cho việc bảo đảm người chưa thành niên có người đại diện tại tòa [36].
3.1.4. Việc thực hiện quy định bảo đảm quyền riêng tư người chưa thành niên trong quá trình xét xử
của
Một yêu cầu mà thực tiễn xét xử NCTN hiện nay vẫn rất hạn chế là áp dụng việc xét xử kín. Điều 307(1) BLTTHS quy định “Trong trường hợp cần thiết, toà án quyết định tiến hành xét xử kín”. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát của UNICEF, các cán bộ Tòa án cho biết việc xét xử kín rất hiếm khi được thực hiện, nếu có khả năng diễn ra chỉ trong trường hợp NCTN liên quan đến vụ án là người bị hại, hoặc khi thẩm phán cho rằng việc mở phiên toà xét xử công khai có thể ảnh hưởng đến danh dự của người bị hại hoặc liên quan đến quốc gia [23]. Gần đây, Thông tư liên tịch 01/2011/TTLT, đã quy định khá chi tiết về việc xét xử kín vụ án do NCTN để tạo thuận lợi cho quá trình tái hòa nhập cộng đồng của họ.
Nguyên nhân chưa thực hiện được yêu cầu này, một phần do quy
định của BLTTHS còn khá mơ
hồ, như
quy định "trong trường hợp cần
thiết" nêu trên mà không có tiêu chí cụ thể nào để đánh giá sự cần thiết; mặt khác, do cơ sở vật chất hạn chế, chế độ đãi ngộ chưa tương xứng, nên trong thực tiễn, cơ quan xét xử còn áp dụng tùy tiện, dẫn đến làm giảm hiệu quả việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN.
Bên cạnh đó, thực tiễn một số nơi còn chọn một số vụ án NCTN để xét xử lưu động. Theo tác giả, việc đưa NCTN xét xử lưu động trước đông người tham dự thì về mặt tâm lý sẽ để lại một dấu ấn tiêu cực khó xóa đối với NCTN, ảnh hưởng xấu đến tâm lý tình cảm, tạo sự mặc cảm, nặng nề, hạn chế tác dụng giáo dục cải tạo đối với chính các bị cáo và sự phát triển bình thường về nhân cách của bị cáo về sau. Tuy nhiên, vấn đề này, Thông tư liên tịch nêu trên đã quy định không được tiến hành xét xử lưu động vụ án do NCTN gây ra, trừ trường hợp cần giáo dục, tuyên truyền pháp luật và phòng ngừa tội phạm. Theo tác giả, quy định như trên tuy đã thể hiện sự tiến bộ nhưng xét trên quan điểm "bảo đảm cho NCTN trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng" thì vẫn chưa phù hợp.
Ví dụ: Phiên tòa lưu động ngày 25/3/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh V. đối với Vụ án Nguyễn Anh T. (sinh ngày 29/9/1994) phạm tội “Hiếp dâm trẻ em” xảy ra ngày 26/12/2012 đối với cháu Nguyễn Thu H. (sinh ngày 25/6/1997). Đánh giá về việc xét xử lưu động vụ án, tác giả cho rằng, bên cạnh những ảnh hưởng cho sự phát triển bình thường của nhân cách bị cáo, Tòa án còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc tái hòa nhập của chính bản thân người bị hại.
3.2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Phần này là điểm mới của Luận án, tác giả đã thông qua việc phân tích những hoạt động quản lý điều hành của các cơ quan tiến hành tố tụng,
những hoạt động nghiệp vụ của cá nhân người tiến hành tố tụng để làm rõ thực trạng của Thiết chế tư pháp, là một trong những phương thức bảo vệ NCTN trong TTHS. Các nguyên nhân của những hạn chế và tồn tại của hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam hiện nay trong quá trình giải quyết vụ án hình sự do NCTN gây ra cụ thể như sau:
3.2.1. Nhận thức hạn chế về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự ở các cơ quan, người tiến hành tố tụng
3.2.1.1. Từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng
Do chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS nên từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng cũng chưa thật sự quan tâm thỏa đáng, cụ thể:
* Thiếu hướng dẫn cụ thể
Ví dụ: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, là cơ quan chủ trì xây dựng
Thông tư
liên tịch số
01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-
BLĐTBXH về
việc hướng dẫn thi hành một số
quy định của BLTTHS,
nhưng ngay trong quy định của Điều 46 Chương VII của Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự (ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về thực hành quyền công tố và kiểm sát) thì việc áp dụng thủ tục tố tụng đối với NCTNPT cũng không có nội dung nào đề cập đến việc Kiểm sát viên phải yêu cầu Cơ quan điều tra mời người bào chữa từ khi NCTN bị bắt, bị tạm giữ hoặc bảo đảm sự hiện diện của người bào chữa, luật sư trong các hoạt động tố tụng này.
* Ban hành quy định gây khó khăn cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN
Thời gian gần đây, tại một số trại tạm giam yêu cầu Luật sư phải có thêm giấy xác nhận ngoài 3 loại giấy tờ (theo quy định của BLTTHS).
Ví dụ: qua công tác kiểm sát tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lạng Sơn, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn cho rằng, Công an tỉnh Lạng Sơn thực hiện chưa đúng quy định của pháp luật khi cho Luật sư gặp bị cáo đang bị tạm giam chỉ có Giấy chứng nhận người bào chữa, có Thẻ Luật sư và giấy giới thiệu của tổ chức hành nghề luật sư. Công an tỉnh Lạng Sơn đã xin ý kiến Cục nghiệp vụ Bộ Công an. Cục hướng dẫn tạm giam, tạm giữ
thuộc Tổng cục VIII Bộ
Công an đã có Công văn số
182/C84-P3 ngày
15/5/2013 gửi Công an tỉnh Lạng Sơn nêu rõ: khi đã có văn bản của Chánh án Tòa án nhân dân đang thụ lý vụ án đồng ý cho Luật sư hoặc người bào chữa khác được gặp bị can trong vụ án và có đầy đủ giấy tờ theo quy định: Giấy chứng nhận người bào chữa trong vụ án do Chánh án Tòa án nhân dân đang thụ lý vụ án cấp; thẻ hành nghề hoặc giấy giới thiệu của đoàn luật sư thì Giám thị trại tạm giam có trách nhiệm tổ chức cho gặp và bố trí cán bộ, chiến sĩ giám sát cuộc gặp. Đối với vụ án nghiêm trọng, phức tạp xét thấy cần thiết thì Giám thị trại tạm giam báo cáo Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã thụ lý điều tra vụ án biết để cử điều tra viên cùng phối hợp giám sát cuộc gặp. Trên cơ sở Công văn này, Trại tạm giam Công an tỉnh Lạng Sơn chỉ đạo cho Luật sư gặp bị cáo phải có 4 loại giấy tờ, ngoài 03 loại theo quy định (Giấy chứng nhận người bào chữa trong vụ án do Chánh án tòa án nhân dân đang thụ lý vụ án cấp; Thẻ Luật sư; Giấy giới thiệu của tổ chức luật sư) thì phải có thêm: Văn bản của Chánh án Tòa án nhân dân đang thụ lý vụ án đồng ý cho luật sư được gặp bị cáo trong vụ án đang bị tạm giam;
3.2.1.2. Từ phía người tiến hành tố tụng
Đây là tồn tại tương đối cơ bản của đội ngũ cán bộ tiến hành tố tụng, do hạn chế về nhận thức nên hầu hết trong tiến hành các hoạt động tố tụng không có sự khác biệt giữa NCTN và Người thành niên. Một số tồn tại phổ biến thể hiện nhận thức hạn chế của Người tiến hành tố tụng (cụ thể ở đây là Điều tra viên trong giai đoạn điều tra vụ án) như sau:
Một là, chưa bảo đảm quyền được bào chữa của NCTN,
Thực tiễn, không ít Điều tra viên cho rằng trong các buổi hỏi cung nếu có người bào chữa tham gia sẽ gây ảnh hưởng cho cuộc điều tra nên đã gây khó khăn cho luật sư, người bào chữa (như đã phân tích). Đây là một bất cập vì trong buổi hỏi cung không có luật sư, các em do đặc trưng về
tâm sinh lý ở lứa tuổi chưa thành niên nên rất sợ hãi, mất bình tĩnh, dẫn
đến những lời khai gây bất lợi cho chính các em. Thực tế có trường hợp các em bị người điều tra đe dọa, thậm chí đánh đập, ép cung, mớm cung để các em khai ra những tình tiết không đúng. Ngoài ra, trong quá trình lấy lời khai, Điều tra viên không chú ý chú ý làm những thủ tục giải thích quyền và nghĩa vụ đối với bị can, bị cáo, đối tượng tình nghi và người giám hộ của họ, nếu có thì cũng chỉ qua loa, chiếu lệ.
Ví dụ: Vụ án Nguyễn Bá Tr. (sinh năm 1987) quê quán Hà Đông, HT bị khởi tố về tội "Cướp tài sản". Trong quá trình hỏi cung, Điều tra viên Bùi Quang H. (Công an thị xã HĐ, nay là Quận HĐ) đã dùng dùi cui điện đánh vào người, rồi đánh tát bắt em nhận tội trong suốt thời gian từ 2 giờ đến 5 giờ chiều ngày 27/4/2001. Điều đáng chú ý ở đây là chị Nghĩa, mẹ của Trung đã không biết con mình đang trong độ tuổi phải có mặt cả đại diện gia đình bị can và chị cũng không được Điều tra viên giải thích, nên khi giao con cho Cơ quan điều tra xong, chị quay ra chờ ở quán nước ven đường. Khoảng 5h chị quay vào thì được Điều tra viên H. cho biết cháu Tr. đã nhận tội (không hề có mặt chị Nghĩa ở đó). Tiếp theo chị được Điều tra viên lập biên bản để lấy lời khai ở vị trí người giám hộ. Chị Nghĩa cho biết, Điều tra viên H. đã đọc cho chị ghi toàn bộ dòng chữ: "Tôi đã trực tiếp ngồi nghe Điều tra viên lấy lời khai cháu Tr. ngày 27/4/2001 và công nhận là đúng”.
Hai là, không chuẩn bị NCTN và gia đình của họ
tốt cho các buổi làm việc, gây khó khăn cho
Trong một số trường hợp, do ít chú ý đến việc nghiên cứu hồ sơ ban đầu, chuẩn bị, vạch kế hoạch cho việc lấy lời khai của bị can nên trong quá trình lấy lời khai điều tra viên đặt câu hỏi không sắc sảo, không có ý nghĩa