Xác Định Thiệt Hại Và Mức Bồi Thường Thiệt Hại Do Vi Phạm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Nhãn Hiệu

Vấn đề bồi thường thiệt hại trong bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự được đặt khi hành vi xâm phạm quyền sở hữu đối với nhãn hiệu đã gây nên những tổn thất nhất định cho chủ sở hữu mà không thể khôi phục được. Trong trường hợp này, Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định cho chủ thể quyền lựa chọn biện pháp buộc bên vi phạm phải bồi thường những thiệt hại xảy ra bằng cách phải thanh toán cho chủ thể quyền giá trị thiệt hại bằng một số tiền nhất định.

Quy định biện pháp buộc bồi thường thiệt hại là hoàn toàn phù hợp vì bản chất của quyền sở hữu đối với nhãn hiệu là một quyền tài sản, chính vì vậy khi có hành vi xâm phạm quyền gây thiệt hại thì nó phải mang tính đền bù tương đương nhằm bù đắp những thiệt hại, mất mát cho chủ thể quyền.

- Buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu, và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu đối với nhãn hiệu.

Biện pháp này mang đặc trưng rõ nét nhất trong áp dụng bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Đây là biện pháp mới được bổ sung trong Luật Sở hữu trí tuệ 2005 với mục đích nhằm phù hợp với quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, cụ thể là quy định tại Điều 46 Hiệp định TRIPS, Điều 12 Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.


2.5. Quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự

Đương sự trong vụ án xâm phạm quyền sở hữu đối với nhãn hiệu có thể yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đồng thời có quyền và nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại Điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự 2004, Điều 203 Luật Sở hữu trí tuệ 2005. Điều 79 Bộ luật ttụng dân sự

2004 đưa ra các quy định mang tính nguyên tắc về nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong đó việc cung cấp chứng cứ để chứng minh là vấn đề quan trọng. Chứng cứ trong thủ tục tố tụng nói chung hay trong vụ việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu đều mang ý nghĩa lớn nên khi quy định về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự, Bộ luật tố tụng đã nhấn mạnh đến vấn đề chứng cứ. Ngoài ra, trong các điều luật khác, quy định về chứng cứ cũng được thể hiện rất rõ ràng, chặt chẽ, chi tiết từ việc quy định thế nào là chứng cứ, nguồn chứng cứ, xác định chứng cứ, việc giao nộp chứng cứ, thu thập chứng cứ…Các chủ thể chứng minh đều có quyền, nghĩa vụ thu thập chứng cứ. Để cụ thể hóa Bộ luật tố tụng dân sự trong các trường hợp kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, Điều 203 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, các điều từ Điều 23 đến Điều 26 Nghị định 105/2006/NĐ-CP đã đưa ra quy định về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự thông qua việc cung cấp chứng cứ và đưa ra các lập luận chính xác, hợp lý.

* Quyền và nghĩa vụ chứng minh của nguyên đơn

Trong vụ án xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, quyền và nghĩa vụ chứng minh của nguyên đơn bao gồm:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

- Chứng minh mình là chủ thể quyền bằng các chứng cứ cần thiết, các chứng cứ chứng minh có thể là:

+ Văn bằng bảo hộ, là bản sao Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa;

Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự - 8

+ Chứng cứ để chứng minh căn cứ phát sinh quyền trong trường hợp cần thiết (thừa kế…);

+ Chứng cứ cần thiết để chứng minh quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng trong trường hợp nhãn hiệu được coi là nhãn hiệu nổi tiếng;

+ Bản sao hợp đồng sử dụng nhãn hiệu trong trường hợp quyền sử dụng được chuyển giao theo hợp đồng;

- Việc chứng minh hành vi xâm phạm (hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh), nghĩa là nguyên đơn phải đưa ra các chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm của bị đơn không được phép của nguyên đơn. Các chứng cứ chứng minh cho hành vi xâm phạm quyền có thể là:

+ Chứng cứ về việc sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ của nguyên đơn cho hàng hóa, dịch vụ trùng với hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó;

+ Chứng cứ chứng minh cho việc sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ của nguyên đơn cho hàng hóa, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa dịch vụ;

+ Chứng cứ chứng minh cho hành vi gắn nhãn hiệu được bảo hộ tại Việt Nam của nguyên đơn hoặc nhãn hiệu tương tự lên bao bì, sản phẩm, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh của bị đơn;

+ Chứng cứ chứng minh việc nhập khẩu, lưu thông, chào bán, quảng cáo nhằm để bán, tàng trữ để bán hàng hóa có gắn nhãn hiệu hàng hóa được bảo hộ tại Việt Nam của nguyên đơn trên thị trường Việt Nam.

+ Chứng cứ chứng minh cho việc sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu hàng hóa được bảo hộ theo Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa hoặc theo đăng ký quốc tế cho hàng hóa, dịch vụ tương tự với hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó hoặc/và sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu đó cho hàng hóa, dịch vụ cùng loại, tương tự với hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng như vậy có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa của bên nguyên đơn;

+ Chứng cứ chứng minh cho việc sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng, hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa,

phiên âm từ nhãn hiệu đó cho hàng hóa, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hóa, dịch vụ không cùng loại, không tương tự với và không liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ có uy tín mang nhãn hiệu nổi tiếng, nếu việc sử dụng như vậy có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu với bên nguyên đơn có nhãn hiệu hàng hóa được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng;

+ Chứng cứ chứng minh cho hành vi tiến hành dịch vụ dưới tên gọi, biểu tượng hoặc gắn trên phương tiện dịch vụ dấu hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu dịch vụ được bảo hộ cho dịch vụ cùng loại hoặc tương tự với dịch vụ đó của nguyên đơn.

- Chứng minh được thiệt hại và mức thiệt hại (trong trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt hại): Nguyên đơn phải chứng minh được thiệt hại thực tế đã xảy ra và nêu căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại nếu có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại. Việc yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại chỉ có thể được xem xét nếu thực tế có thiệt hại xảy ra và thiệt hại ấy là do lỗi của bên bị đơn. Các mức căn cứ xác định thiệt hại phải dựa trên thiệt hại thực tế. Việc chứng minh này thuộc nghĩa vụ của nguyên đơn;

- Trong một số trường hợp nhất định, khi nguyên đơn chứng minh được chứng cứ thích hợp để chứng minh cho yêu cầu của mình bị bên kia kiểm soát do đó không thể tiếp cận được, thì có quyền yêu cầu tòa án buộc bị đơn phải đưa ra chứng cứ đó.

* Quyền và nghĩa vụ chứng minh của bị đơn

- Bị đơn có quyền và nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự cũng như trong Luật Sở hữu trí tuệ. Khoản 2 Điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự quy định "Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh", khoản 4 Điều 79 quy định tiếp: "Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra

đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó";

- Bị đơn có quyền chứng minh là mình không xâm phạm nếu có căn

cứ;

- Bị đơn có quyền yêu cầu tòa án buộc nguyên đơn phải đưa ra chứng

cứ mà mình không thể thu thập được nhưng đang thuộc quyền kiểm soát của nguyên đơn.

Khác với tố tụng hình sự nghĩa vụ chứng minh thuộc về tòa án, việc đưa ra chứng cứ và chứng minh trong vụ án dân sự hay vụ kiện dân sự về vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu thuộc về các đương sự, các bên có quyền và nghĩa vụ chứng minh cho khiếu kiện, yêu cầu của mình. Tòa án trong phạm vi chức năng, thẩm quyền sẽ có kết luận cuối cùng trên cơ sở những chứng cứ, lập luận mà đương sự đưa ra. Việc xác minh và thu thập chứng cứ chỉ được tòa án tiến hành khi thấy cần thiết.

2.6. Xác định thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

Bồi thường thiệt hại là một trong những chế định căn bản về trách nhiệm dân sự. Pháp luật dân sự của bất kỳ quốc gia nào cũng quy định nguyên tắc về trách nhiệm pháp lý trong quan hệ dân sự, đó là gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Theo quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam, quyền sở hữu công nghiệp được coi là một loại quyền tài sản (Điều 181 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 4.1 Luật Sở hữu trí tuệ). Vì vậy, các quy định về việc xác định mức bồi thường thiệt hại trong các vụ tranh chấp về dân sự cũng được áp dụng cho các tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp - cụ thể là các quy định tại Chương XXI của Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, Điều 605 Bộ luật dân sự cũng chỉ quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại áp dụng chung cho mọi tranh chấp dân sự:

Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; Người gây thiệt hại có thể đ- ược giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình; Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cươ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.

Điều 608 Bộ luật Dân sự quy định về bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm với các loại thiệt hại được bồi thường bao gồm: Tài sản bị mất; Tài sản bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng; Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản; Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.

Do việc xác định mức bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ (bao gồm sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu) là vấn đề quan trọng nhưng quy định về bồi thường thiệt hại trong Bộ luật Dân sự chỉ điều chỉnh chung và khó vận dụng để giải quyết các trường hợp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, chính vì vậy để tạo căn cứ pháp lý cho vấn đề này, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 đã quy định về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra (trong đó có quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu). Các điều luật đưa ra nguyên tắc xác định thiệt hại và căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại.

Điều 204 quy định về nguyên tắc xác định thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, trong đó thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra bao gồm:

a) Thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại;

Các khái niệm "tổn thất về tài sản", "mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận", "tổn thất về cơ hội kinh doanh", "chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại" được Nghị định 105/2006/NĐ-CP giải thích cụ thể hơn, vận dụng trong xác định thiệt hại từ vi phạm nhãn hiệu được hiểu như sau:

Tổn thất về tài sản:

Được xác định theo mức độ giảm sút hoặc bị mất về giá trị tính được thành tiền của đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ, theo một hoặc các căn cứ sau đây:

- Giá chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc giá chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu;

- Giá trị góp vốn kinh doanh bằng giá trị nhãn hiệu;

- Giá trị nhãn hiệu trong tổng số tài sản của doanh nghiệp;

- Giá trị đầu tư cho việc tạo ra và phát triển nhãn hiệu, bao gồm các chi phí tiếp thị, nghiên cứu, quảng cáo, lao động, thuế và các chi phí khác.

Mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận:

Để tính mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận phải xác định các khoản thu thu nhập, lợi nhuận, được hiểu bao gồm các khoản sau:

+ Thu nhập, lợi nhuận thu được do sử dụng, khai thác trực tiếp

nhãn hiệu;


nhãn hiệu.


+ Thu nhập, lợi nhuận thu được do cho thuê sử dụng;

+ Thu nhập, lợi nhuận thu được do chuyển giao quyền sử dụng


Căn cứ vào các khoản thu nhập, lợi nhuận trên, mức giảm sút về

thu nhập, lợi nhuận được xác định theo một hoặc các cơ sở sau đây:

+ So sánh trực tiếp mức thu nhập, lợi nhuận thực tế trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm, tương ứng với từng loại thu nhập;

+ So sánh sản lượng, số lượng hàng hóa, dịch vụ thực tế tiêu thụ hoặc cung ứng trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm;

+ So sánh giá bán thực tế trên thị trường của hàng hóa, dịch vụ trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm.

Tổn thất về cơ hội kinh doanh

Cơ hội kinh doanh được hiểu bao gồm:

+ Khả năng thực tế sử dụng, khai thác trực tiếp nhãn hiệu trong kinh

doanh;


+ Khả năng thực tế cho người khác thuê sử dụng nhãn hiệu;

+ Khả năng thực tế chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu, chuyển

nhượng nhãn hiệu cho người khác;

+ Cơ hội kinh doanh khác bị mất do hành vi xâm phạm trực tiếp gây

ra.

Trên cơ sở đó, tổn thất về cơ hội kinh doanh được hiểu là thiệt hại về

giá trị tính được thành tiền của khoản thu nhập đáng lẽ người bị thiệt hại có thể có được khi thực hiện các khả năng nêu trên nhưng thực tế không có được khoản thu nhập đó do hành vi xâm phạm gây ra (Điều 19 của Nghị định 105/2006/NĐ-CP)

Chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại

Chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại được hiểu bao gồm chi phí cho việc tạm giữ, bảo quản, lưu kho, lưu bãi đối với hàng hóa xâm phạm, chi phí thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời, chi phí hợp lý để thuê dịch vụ giám định, ngăn chặn, khắc phục hành vi xâm phạm và chi phí cho việc thông báo, cải chính trên phương tiện thông tin đại chúng liên quan đến hành vi xâm phạm.

Tổn thất thực tế

Xem tất cả 119 trang.

Ngày đăng: 12/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí