Các Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời Được Áp Dụng

Chỉ được coi là có "tổn thất thực tế" về vật chất/tinh thần nếu người bị thiệt hại chứng minh được rằng:

- Lợi ích vật chất hoặc tinh thần là có thực và thuộc về người bị thiệt hại;

- Người bị thiệt hại có khả năng đạt được lợi ích nêu trên;

- Có sự giảm sút hoặc mất lợi ích của người bị thiệt hại sau khi hành vi xâm phạm xảy ra so với khả năng đạt được lợi ích đó khi không có hành vi xâm phạm và hành vi xâm phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm sút, mất lợi ích đó.

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ban hành Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 07 năm 2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, Nghị quyết này chỉ hướng dẫn về cách tính thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm, tính mạng bị xâm phạm, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm và thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Cách tính bồi th- ường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây ra chưa được h- ướng dẫn trong Nghị quyết này.

b) Thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho chủ sở hữu nhãn hiệu. Việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra và việc xác định mức bồi thường là vấn đề phức tạp, điều này phụ thuộc vào khả năng chứng minh của bên yêu cầu. Trong xác định thiệt hại đối với nhãn hiệu, việc xác định thiệt hại về tinh thần hầu như không được đặt ra.

Trên cơ sở các quy định về xác định thiệt hại, có thể thấy rằng, mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ thể quyền sở hữu nhãn hiệu phải chịu do hành vi xâm phạm quyền sở hữu đối với nhãn hiệu gây ra.

Trên cơ sở các quy định về xác định thiệt hại, tại Điều 205 Luật Sở

hữu trí tuệ 2005 quy định về căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra. Theo đó, mức bồi thường thiệt hại đối với nhãn hiệu được xác định theo một trong các khả năng sau:

+ Tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu đối với nhãn hiệu, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

+ Giá chuyển giao quyền sử dụng đối với nhãn hiệu với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu đó theo hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã thực hiện;

+ Mức do Tòa án ấn định, tùy thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá năm trăm triệu đồng (trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các khả năng nêu tại hai điểm trên đây).

Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự - 9

Những quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại, những nguyên tắc cũng như căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu công nghiệp trong đó có nhãn hiệu được quy định trong Luật Dân sự 2005, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 là rất cần thiết, làm căn cứ pháp lý thống nhất khi xác định mức thiệt hại cũng như đáp ứng với yêu cầu của Hiệp định TRIPS, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Điều 45 Hiệp định TRIPS, Điều 12 khoản 2, khoản 3 Hiệp định thương mại Việt Nam

- Hoa Kỳ yêu cầu các bên phải dành cho cơ quan tố tụng thẩm quyền buộc bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại cho chủ thể quyền dưới hình thức trả một khoản tiền đủ để đền bù thiệt hại do hành vi xâm phạm gây nên (kể cả các khoản chi phí tố tụng, như chi phí thuê luật sư) và các khoản lợi nhuận nếu chưa được tính vào thiệt hại thực tế; hoặc trả một khoản bồi thường theo mức ấn định trước. Trên tinh thần đó, quy định về bồi thường thiệt hại đã được thể chế trong Luật sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, các quy định pháp luật hiện

hành của Việt Nam về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây ra nhìn chung chỉ mang tính nguyên tắc, định khung pháp lý. Khi xét xử các tranh chấp về sở hữu công nghiệp, các tòa án phải căn cứ vào tình hình thực tế của mỗi vụ tranh chấp để xác định mức bồi thường cho phù hợp. Với quy định tương đối chung như vậy nên trên thực tế khó tránh khỏi tình trạng phán quyết của các tòa án nhiều khi không thống nhất, thậm chí còn tương đối cách biệt nhau khi xác định mức bồi thường thiệt hại cho cùng một vụ tranh chấp (khác biệt trong phán quyết của tòa sơ thẩm và tòa phúc thẩm) hoặc có sự khác biệt về mức bồi thường cho các vụ tranh chấp khác nhau nhưng xét về bản chất và mức độ vi phạm chúng có nhiều điểm tương đồng nhau. Điều đó chính là nguyên nhân đương sự luôn tìm cách kháng cáo lên nhiều cấp xét xử, kéo dài thời hạn giải quyết tại tòa án và ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị xâm phạm quyền. Thực trạng này đang làm cho việc giải quyết các vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tại tòa án trở nên khó khăn, phức tạp và tốn kém cho các chủ thể quyền sở hữu công nghiệp, trong khi chúng ta đang thực hiện chủ trương chuyển dần việc xử lý xâm phạm về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng sang hệ thống tòa án cho phù hợp với bản chất dân sự của quyền sở hữu trí tuệ.

2.7. Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời

Biện pháp khẩn cấp tạm thời là tối quan trọng đối với việc bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt quyền sở hữu đối với nhãn hiệu. Trong quá trình từ khi bắt đầu thủ tục đến khi đưa ra quyết định cuối cùng về vụ kiện dân sự đối với nhãn hiệu, có thể đã có những thiệt hại dưới dạng giảm sút lượng hàng bán và giảm sút lợi nhuận, về danh tiếng và khai thác tư liệu hoặc thông tin khác. Hơn nữa bản chất của hành vi vi phạm hay hành vi bất hợp pháp khác có thể khiến cho biện pháp đặt ra đối với những thiệt hại hay tính toán lợi nhuận là một biện pháp không đầy đủ, không ngăn chặn được hết ảnh hưởng xấu cho chủ sở hữu quyền. Một trong các lý do của việc này là bị đơn không

thể trang trải đền bù hoặc có thể biến mất. Ngoài ra, trong trường hợp cụ thể, việc bồi thường thiệt hại không phải là biện pháp thỏa đáng. Điều này có lẽ xuất phát từ bản chất của quyền sở hữu trí tuệ nói chung được đề cập tới và việc khó khăn khi ước tính chính xác những thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra. Trong trường hợp như vậy, nếu hành vi bất hợp pháp của bị đơn bị hạn chế ngay từ ban đầu, thì vấn đề thiệt hại có thể không xuất hiện hoặc việc giải quyết vụ kiện sẽ đỡ khó khăn hơn nhiều. Đó là lý do để biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định cho sự lựa chọn của bên khởi kiện.

2.7.1. Quyền yêu cầu

Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì trong quá trình của một vụ kiện dân sự (trong đó bao gồm cả các vụ kiện liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu), việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được đặt ra bởi các chủ thể sau:

- Bên khởi kiện: tức là chủ thể của quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, có thể yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

- Viện kiểm sát: Viện kiểm sát trong phạm vi chức năng của mình, khi xem xét hồ sơ vụ án dân sự, nếu thấy cần thiết có thể đề nghị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

- Trong một số trường hợp Tòa án có thể tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

2.7.2. Điều kiện áp dụng

Khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện, chủ thể quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong những điều kiện:

+ Đang có nguy cơ xảy ra thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ sở hữu nhãn hiệu;

+ Hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu đối với nhãn hiệu hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm quyền sở hữu đối với nhãn hiệu có nguy cơ bị tẩu tán hoặc bị tiêu hủy nếu không được bảo vệ kịp thời.

Việc quy định cụ thể các điều kiện để chủ thể quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu có quyền yêu cầu tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là cần thiết nhằm tránh tình trạng chủ thể quyền lạm dụng quyền yêu cầu, gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp này.

2.7.3. Nghĩa vụ của bên yêu cầu

Pháp luật cũng quy định về nghĩa vụ của bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để ràng buộc trách nhiệm khi người đó yêu cầu. Cụ thể là bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ: chứng minh yêu cầu của mình là hợp pháp và có căn cứ; bồi thường thiệt hại gây ra cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó trong trường hợp người đó không xâm phạm quyền sở hữu đối với nhãn hiệu; phải nộp khoản bảo đảm bằng một trong các hình thức sau đây: khoản tiền bằng 20% giá trị hàng hóa cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc tối thiểu hai mươi triệu đồng nếu không thể xác định được giá trị hàng hóa đó hoặc chứng từ bảo lãnh của ngân hàng hoặc của tổ chức tín dụng khác.

Việc quy định khoản tiền bảo đảm mà người có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp để ngăn chặn khả năng lạm dụng quyền yêu cầu, gây thiệt hại cho người khác đồng thời đáp ứng yêu cầu tại khoản 3 Điều 50 của TRIPS, khoản 7 Điều 12 và khoản 3 Điều 15 của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Mức tiền bảo đảm trong trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định như trên căn cứ vào tình hình thực tiễn cũng như xuất phát từ quy định pháp luật hiện hành về mức tiền bảo đảm.

2.7.4. Thẩm quyền áp dụng

Để đảm bảo tính thống nhất trong quy định giữa các văn bản pháp luật nên các quy định về thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được

thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Theo đó, thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc về tòa án. Tòa án trong phạm vi chức năng của mình, căn cứ vào tình hình thực tế vụ án, nếu thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu, có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

2.7.5. Thủ tục áp dụng

Theo thủ tục chung, để tòa án có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, bên khởi kiện (là nguyên đơn) phải làm đơn yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và phải có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó là cần thiết. Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải cam kết đền bù mọi thiệt hại cho Bị đơn nếu việc áp dụng các biện pháp đó là không xứng đáng và bị lạm dụng. Sau khi nhận được đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và các chứng cứ kèm theo, Chánh án tòa án có thẩm quyền chỉ định ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu (đối với trường hợp người yêu cầu nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cùng với việc nộp đơn khởi kiện). Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết. Trước khi ra Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, tòa án có thể yêu cầu người khởi kiện tạm đóng một khoản tiền bảo đảm để khi có thiệt hại do việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời gây ra thì bồi thường ngay và tòa án sẽ giải quyết việc bồi thường đó trong cùng một vụ kiện. Người yêu cầu phải thực hiện biện pháp bảo đảm này trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nộp đơn yêu cầu;

Đối với trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình tòa án giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải xem xét, giải quyết trong thời hạn 3 ngày ngay sau khi người yêu cầu thực hiện biện pháp bảo đảm;

Trường hợp Hội đồng xét xử nhận được đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử xem xét ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay sau khi người yêu cầu thực hiện xong biện pháp bảo đảm.


2.7.6. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng

Trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004, biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định chung và được hướng dẫn chi tiết trong Nghị quyết số 02/2005/NQ- HĐTP ngày 27 tháng 4 năm 2005 áp dụng cho thủ tục tố tụng dân sự nói chung như: cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định; cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài khoản ở nơi gửi giữ; kê biên tài sản đang tranh chấp; phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ… Theo đó, Điều 207 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 đã lựa chọn những biện pháp phù hợp có thể áp dụng trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời áp dụng đối với hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện sản xuất, kinh doanh hàng hóa đó có thể là:

- Thu giữ;

- Kê biên;

- Niêm phong, cấm thay đổi hiện trạng, cấm di chuyển;

- Cấm chuyển dịch quyền sở hữu.

- Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác được áp dụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác được áp dụng theo Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 được hiểu là: cho bán sản phẩm hàng hóa; phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho

bạc nhà nước, phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ; phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ; cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định…

Về cơ bản, các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Điều 207 Luật Sở hữu trí tuệ nằm trong quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004. Như vậy, trong quy định của Luật chưa đề cập đến những biện pháp khẩn cấp tạm thời đặc thù áp dụng trong sở hữu trí tuệ, đặc biệt trong trường hợp vi phạm nhãn hiệu.

2.7.7. Hủy bỏ việc áp dụng

Điều 209 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định về việc hủy bỏ việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, theo đó Quyết định hủy bỏ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện bởi Tòa án, cơ quan đã tiến hành ra Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trên cơ sở Điều 100 Bộ luật Tố tụng Dân sự: nếu việc hủy bỏ tiến hành trước khi mở phiên tòa sẽ do một Thẩm phán phụ trách vụ kiện xem xét quyết định, nếu việc hủy bỏ trong thời điểm mở phiên tòa sẽ do Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

Điều 209 quy định như sau:

1. Tòa án ra quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 122 của Bộ luật tố tụng dân sự và trong trường hợp người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chứng minh được việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là không có căn cứ xác đáng.

2. Trong trường hợp hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời, Tòa án phải xem xét để trả lại cho người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khoản bảo đảm quy định tại khoản 2 Điều 208 của Luật này. Trong trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không có căn cứ xác đáng và gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án buộc người yêu cầu phải bồi thường thiệt hại.

Xem tất cả 119 trang.

Ngày đăng: 12/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí