Khái Niệm Và Đặc Điểm Của Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Chỉ Dẫn Địa Lý


quyền sở hữu trí tuệ. Đặc tính vô hình của đối tượng quyền sở hữu trí tuệ là đặc trưng quan trọng nhất dẫn đến nhiều đặc trưng quan trọng khác của quyền sở hữu trí tuệ.

Quyền sở hữu công nghiệp là một quyền tài sản và đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp mang tính phi vật chất. Bởi vì, bản thân quyền sở hữu công nghiệp không thể tự nó đem lại các tiện ích hiện hữu cho người nắm giữ quyền mà nó chỉ đem lại các lợi ích vật chất và tinh thần cũng như các lợi thế cho chủ sở hữu, người sử dụng khi các đối tượng sở hữu công nghiệp được áp dụng vào quá trình sản xuất, kinh doanh.

b. Tính hạn chế của quyền sở hữu công nghiệp

Tính hạn chế của quyền sở hữu công nghiệp là một đặc trưng cơ bản của quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng. Đây chính là sự khác biệt giữa quyền sở hữu các đối tượng là tài sản vật chất hữu hình với các đối tượng là tài sản vật chất vô hình.

Tính hạn chế của quyền sở hữu công nghiệp được thể hiện ở nhiều khía cạnh như hạn chế về không gian, hạn chế về thời gian, hạn chế quyền của chủ sở hữu (quyền sở hữu công nghiệp có thể bị hạn chế bởi quyền của người sử dụng trước đối với sáng chế, kiểu dáng hoặc chủ sở hữu phải có nghĩa vụ sử dụng sáng chế, nhãn hiệu hay quyền sử dụng sáng chế có thể bị chuyển giao bắt buộc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền), việc sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp không thuộc quyền sở hữu của mình phải được sự cho phép của chủ sở hữu đối với quyền sở hữu công nghiệp đó, v.vTrong phạm vi luận văn này, tôi xin chỉ đề cập tới tính hạn chế của quyền sở hữu công nghiệp ở hai khía cạnh đó là tính hạn chế về không gian và tính hạn chế về thời gian

- Về không gian:


Quyền sở hữu công nghiệp mang tính lãnh thổ tuyệt đối. Khác với quyền sở hữu tài sản vật chất, chỉ một số loại tài sản nhất định mới phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sở hữu công nghiệp chỉ phát sinh trên cơ sở công nhận hoặc cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chỉ được bảo hộ trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia nhất định đã công nhận hoặc cấp văn bằng đó. Việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trên thế giới đều tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc pháp luật quốc gia.

Cũng khác với quyền tác giả mặc nhiên phát sinh ngay sau khi tác phẩm được tác giả sáng tạo ra và thể hiện dưới một hình thức nhất định, quyền sở hữu công nghiệp muốn được bảo hộ phải có đơn yêu cầu bảo hộ hoặc công nhận và được bảo hộ từ thời điểm được cấp văn bằng bảo hộ hoặc quyết định công nhận (trừ một số đối tượng như tên thương mại, bí mật kinh doanh).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp xuất phát từ đặc trưng của đối tượng sở hữu công nghiệp - một loại tài sản vô hình được truyền bá bằng con đường nhận thức nên rất dễ bị xâm phạm, khó kiểm soát. Hơn nữa, việc áp dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp chủ yếu gắn với quá trình sản xuất công nghiệp, với mục đích thương mại và thỏa mãn nhu cầu vật chất của con người nên thường mang lại lợi ích lớn, có ảnh hưởng tới sự phát triển của khoa học kỹ thuật và kinh tế xã hội của quốc gia. Vì vậy, quyền sở hữu công nghiệp mang tính không gian và lãnh thổ tuyệt đối.

- Về thời gian:

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý theo pháp luật Việt Nam - Ninh Thị Thanh Thủy - 4

Quyền sở hữu công nghiệp còn bị hạn chế về mặt thời gian. Nhìn chung, quyền sở hữu công nghiệp chỉ được bảo hộ trong một khoảng thời gian nhất định được ghi trong văn bằng bảo hộ và chủ sở hữu các quyền sở hữu công nghiệp phải nộp lệ phí cho sự bảo hộ đó. Khoảng thời gian nhất định để bảo hộ là khoảng thời gian hợp lý để chủ sở hữu các quyền sở hữu công nghiệp khai thác các đối tượng sở hữu công nghiệp của mình để bù đắp những


chi phí vật chất và tinh thần khi tạo ra đối tượng đó. Khi kết thúc thời hạn bảo hộ (kể cả thời gian gia hạn), quyền sở hữu công nghiệp của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng cũng chấm dứt, ngoại trừ một số đối tượng sở hữu công nghiệp như tên thương mại, chỉ dẫn địa lý... được bảo hộ vô thời hạn nhưng các đối tượng đó cũng như chủ sở hữu các đối tượng đó phải đảm bảo một số điều kiện do pháp luật quy định.

Sự giới hạn thời gian bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp xuất phát từ sự phát triển của khoa học công nghệ, của kinh tế xã hội bởi vì các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp là những sản phẩm trí tuệ có ích cho xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ. Nếu những đối tượng quyền sở hữu công nghiệp được bảo hộ vĩnh viễn thì sẽ kìm hãm sự sáng tạo, dẫn đến tình trạng bưng bít thông tin. Sau khi hết thời hạn bảo hộ, các đối tượng sở hữu công nghiệp này sẽ trở thành tài sản chung của nhân loại.

c. Quyền sử dụng là quyền năng cơ bản nhất của quyền sở hữu công nghiệp

Quyền sở hữu công nghiệp là một quyền dân sự theo nghĩa rộng. Đây không phải là một quyền dân sự "tuyệt đối" theo cách hiểu truyền thống từ trước đến nay về quyền dân sự. Quyền sở hữu công nghiệp thường gắn với các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Mục đích của các quan hệ dân sự về quyền sở hữu công nghiệp không phải là để thỏa mãn những mục đích tiêu dùng dân sự thường ngày của các chủ thể mà chính là các lợi ích kinh tế thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh có sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp.

Đặc tính không hữu hình của sản phẩm sáng tạo trí tuệ nói chung và của đối tượng quyền sở hữu công nghiệp nói riêng sau khi bộc lộ có thể lan truyền vô giới hạn, không thể kiểm soát được. Do vậy, để chiếm giữ, người chiếm giữ hoặc là không công bố, giữ bí mật về sản phẩm, không đưa vào sử


dụng, khai thác hoặc có khai thác nhưng phải giữ không cho người khác biết về bản chất của đối tượng đó. Tuy nhiên, trên thực tế, điều này không thể thực hiện được hoặc nếu có thực hiện được thì không có ý nghĩa. Do vậy, quyền năng quan trọng nhất trong nội dung quyền sở hữu công nghiệp là quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp

Quyền sở hữu công nghiệp là một quyền đặc biệt thể hiện khả năng độc quyền khai thác, sử dụng của chủ sở hữu đối với đối tượng được bảo hộ. Việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu, của tác giả bằng cách tạo điều kiện cho họ thu lợi, bù đắp những chi phí mà họ đã bỏ ra. Do đó, chỉ chủ sở hữu mới có quyền sử dụng và chuyển giao cho người khác quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp của mình.

1.1.2.3. Khái niệm và đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý

Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý là quyền sở hữu công nghiệp mang tính chủ quyền về hình ảnh khác với các quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế hay nhãn hiệu. Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý là quyền sở hữu công nghiệp được hơn 140 quốc gia thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) công nhận thông qua Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại (Hiệp định TRIPS) áp dụng cho lĩnh vực chỉ dẫn địa lý.

ở Việt Nam, bảo hộ chỉ dẫn địa lý là việc rất mới và khái niệm này mới được pháp luật quy định trong những năm gần đây nên hầu như mọi người còn chưa hiểu hết ý nghĩa, nội dung cũng như lợi ích của việc bảo hộ này mang lại cho chính mình.

Theo quy định tại Điều 751 Bộ luật Dân sự năm 2005, quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý bao gồm quyền sở hữu chỉ dẫn địa lý của


Nhà nước và quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý của các tổ chức, cá nhân đáp ứng các điều kiện do pháp luật về sở hữu trí tuệ quy định.

Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý là quyền của tổ chức, cá nhân đối với chỉ dẫn địa lý (khoản 4 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005).

Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định của Cục Sở hữu trí tuệ về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý cho tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý (mục 1.3 của Thông tư 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/2/2007 hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp).

Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cũng có một số đặc điểm chung của quyền sở hữu công nghiệp như tính vô hình, tính hạn chế về không gian. Ngoài ra, quyền sở hữu công nghiệp đối với đối tượng này còn có những đặc điểm riêng biệt như:

- Người sử dụng chỉ dẫn địa lý không phải là chủ sở hữu chỉ dẫn địa

Chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý của Việt Nam là Nhà nước. Nhà nước trao

quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý cho tổ chức, cá nhân tiến hành việc sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý tại địa phương tương ứng và đưa sản phẩm đó ra thị trường. Nhà nước trực tiếp thực hiện quyền quản lý chỉ dẫn địa lý hoặc trao quyền quản lý chỉ dẫn địa lý cho tổ chức đại diện quyền lợi của tất cả các tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý. Như vậy, quyền sở hữu đối với chỉ dẫn địa lý là quyền sở hữu tập thể trong khi đó quyền sở hữu đối với một số đối tượng sở hữu công nghiệp khác (ví dụ nhãn hiệu) là quyền sở hữu cá nhân. Quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý là quyền sử dụng tập thể dành cho những người tuân thủ các quy trình kỹ thuật bao gồm những quy trình và điều kiện bắt buộc liên quan đến khu vực địa lý được ấn định ranh giới cụ thể. chỉ dẫn địa lý được mọi tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng


hóa sử dụng nếu sản phẩm của họ được sản xuất tại vùng lãnh thổ có chỉ dẫn địa lý và hàng hóa đó có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do điều kiện địa lý của khu vực, vùng lãnh thổ tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định.‌

- Việc bảo hộ tại nước xuất xứ là điều cốt lõi, là nền tảng cho việc tồn tại và bảo hộ các chỉ dẫn địa lý. Việc bảo hộ tại nước xuất xứ là điều kiện tiên quyết cho sự bảo hộ trên phạm vi quốc tế.

Từ quy định tại khoản 2 Điều 80 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 có thể hiểu rằng chỉ dẫn địa lý nước ngoài muốn được bảo hộ tại Việt Nam phải đã được đăng ký tại nước có chỉ dẫn địa lý đó.

- Khác với các đối tượng sở hữu công nghiệp khác như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý không bị giới hạn thời hạn bảo hộ nếu đối tượng bảo hộ là chỉ dẫn địa lý vẫn đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định. Nói cách khác, Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý có hiệu lực vô thời hạn kể từ ngày cấp.

- Quyền đối với chỉ dẫn địa lý không được chuyển nhượng, quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý không được chuyển giao

Quyền sở hữu chỉ dẫn địa lý thuộc về Nhà nước và quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý là quyền sử dụng tập thể. Chỉ dẫn địa lý là một loại tài sản chung của mọi người sống trên khu vực địa lý đó và có mối quan hệ với chỉ dẫn địa lý đó. Chính vì vậy, để có được quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì người có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý phải có nghĩa vụ đảm bảo cho uy tín hoặc danh tiếng vốn có của loại hàng hóa mang chỉ dẫn địa lý. Do đặc trưng của chỉ dẫn địa lý là mối liên hệ mật thiết với khu vực địa lý mà hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra mang đặc trưng địa lý ở khu vực đó nên quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý không được phép chuyển giao cho bất kỳ chủ thể nào khác.


1.2. Vài nét về sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý trên thế giới và ở Việt Nam

1.2.1. Lịch sử và hệ thống pháp luật quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý

Chỉ dẫn địa lý có thể được bảo hộ ở phạm vi quốc tế thông qua các điều ước quốc tế. Có bốn điều ước quốc tế do WIPO quản lý liên quan đến bảo hộ chỉ dẫn địa lý: Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp 1883, Thỏa ước Madrid về chống chỉ dẫn sai lệch về nguồn gốc hàng hoá 1991, Thỏa ước Lisbon về bảo hộ và đăng ký quốc tế tên gọi xuất xứ 1958 và Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS).

Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp ("Công ước Paris") được ký kết ngày 20/3/1883 tại Paris, được xem xét lại tại Brussels năm 1900, tại Washington năm 1911, tại La Hay năm 1925, tại Luân Đôn năm 1934, tại Lisbon năm 1958, tại Stockholm năm 1967 và được sửa đổi vào năm 1979.

Theo Công ước Paris, đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, mẫu hữu ích, tên thương mại, chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.

Thuận lợi chính của việc bảo hộ mà Công ước Paris mang lại đối với các chỉ dẫn nguồn gốc nằm ở sự mở rộng khu vực lãnh thổ của các nước thành viên Liên hiệp Paris. Mặt khác, Công ước Paris không giải quyết vấn đề chỉ dẫn là tên gọi chung của một sản phẩm ở nước xuất xứ nhưng không phải là tên gọi chung ở các nước khác cho nên các nước thành viên của Công ước hoàn toàn được độc lập trong vấn đề này.

Mặc dù là công ước quốc tế có nhiều thành viên tham gia nhất (tính đến 30/9/2009, đã có 173 nước tham gia [57] - Việt Nam tham gia Công ước Paris từ ngày 8/3/1949), nội dung bảo hộ cho các chỉ dẫn địa lý theo Công


ước Paris rất hẹp. Theo Điều 1(2) Công ước Paris, một trong các đối tượng của sở hữu công nghiệp là "chỉ dẫn nguồn gốc" và "tên gọi xuất xứ hàng hóa". Theo Điều 10, các nước thành viên có nghĩa vụ bảo hộ các chỉ dẫn nguồn gốc, nhưng không có quy định cụ thể nào cho bảo hộ các tên gọi xuất xứ hàng hóa. Tuy nhiên, Điều 9, 10 và 10ter có thể được áp dụng cho tên gọi xuất xứ hàng hóa vì mỗi tên gọi xuất xứ hàng hóa cũng được xác định như một chỉ dẫn nguồn gốc. Điều 9 quy định một số chế tài - chủ yếu là các biện pháp kiểm soát biên giới - có thể áp dụng trong trường hợp sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp các chỉ dẫn nguồn gốc giả. Điều 10bis đề cập tới việc bảo hộ chống lại cạnh tranh không lành mạnh, do vậy đã tạo nền tảng cho bảo hộ chống lại việc sử dụng những chỉ dẫn địa lý dễ gây nhầm lẫn, sai trái hoặc giả mạo. Điều 10ter khẳng định lại các quy định tại Điều 9 và Điều 10. Một trong những hạn chế chính nữa của Công ước Paris là các chế tài chỉ áp dụng đối với các chỉ dẫn giả mà không áp dụng đối với các chỉ dẫn gây nhầm lẫn.

Vì hạn chế rất lớn của Công ước Paris nên vào năm 1891 một số nước đã cùng nhau thành lập một hiệp hội mới để bảo hộ các chỉ dẫn địa lý. Thỏa ước Madrid về chống chỉ dẫn sai lệch về nguồn gốc hàng hóa ngày 14/4/1891 ("Thỏa ước Madrid") là một hiệp ước đặc biệt trong khuôn khổ Liên hiệp Paris. Thỏa ước này được xem xét lại tại Washington năm 1911, tại La Hay năm 1925, tại Luân Đôn năm 1934, tại Lisbon năm 1958, được bổ sung tại Stockholm năm 1967. Mục đích của Thỏa ước này là nhằm ngăn chặn không chỉ những chỉ dẫn nguồn gốc sai lệch mà còn cả những chỉ dẫn giả mạo. Thỏa ước Madrid tiến bộ hơn so với Công ước Paris ở 03 điểm chính: (i) Thỏa ước Madrid áp dụng đối với cả các chỉ dẫn gây nhầm lẫn; (ii) Thỏa ước Madrid ngăn cấm việc sử dụng các chỉ dẫn sai trên sản phẩm, các quảng cáo hoặc các hình thức tuyên bố trước công chúng khác; và (iii) Thỏa ước Madrid ngăn cấm các nước thành viên biến các chỉ dẫn địa lý của rượu vang thành các tên gọi thông thường của sản phẩm. Tuy vậy, do có nhiều cách giải thích khác nhau đối với các điều khoản của Thỏa ước này - ví dụ, về thuật ngữ "kiểu"

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022