Khái Niệm Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Và Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Bằng Biện Pháp Dân Sự

sở hữu công nghiệp chỉ có thể được bảo hộ trong một khoảng thời gian xác định tùy thuộc vào từng loại đối tượng và chỉ giới hạn trong một phạm vi lãnh thổ xác định.

Thời gian nhắc đến ở đây là thời hạn của văn bằng bảo hộ mà chủ sở hữu các đối tượng SHCN được cấp. Căn cứ vào giá trị của từng đối tượng SHCN đối với sự phát triển của tiến bộ xã hội, có thể chia thời hạn bảo hộ ra thành ba loại: thời hạn bảo hộ được xác định và không được gia hạn; thời hạn bảo hộ được xác định và có thể được gia hạn; thời hạn bảo hộ không xác định.

1.2. Khái niệm bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp và bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự

1.2.1. Khái niệm bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp

Giữa các khái niệm bảo vệ QSHCN, bảo hộ QSHCN, thực thi QSHCN có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để làm rõ khái niệm bảo vệ QSHCN, trước hết chúng ta cần làm rõ khái niệm về bảo hộ QSHCN và thực thi QSHCN.

Ở Việt Nam, khái niệm bảo vệ QSHTT lần đầu tiên được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ. Trước khi luật này được ban hành, những khái niệm được sử dụng thường xuyên là “bảo hộ QSHTT”, “thực thi QSHTT”. Hai thuật ngữ này được sử dụng phổ biến trong mọi hoạt động của lĩnh vực SHTT, từ hoạt động xây dựng pháp luật, hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về SHTT đến các hoạt động thực thi SHTT.

Theo Từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “bảo hộ” được hiểu là “che chở, không để bị hư hỏng, tổn thất” [33]. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội thì “bảo hộ QSHCN là bảo hộ sản phẩm trí tuệ, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể QSHCN như tác giả, chủ văn bằng bảo hộ và người sử dụng hợp pháp đối tượng QSHCN” [37]. Do vậy, khái niệm về “bảo hộ QSHCN” được hiểu chung nhất là tất cả những hành vi mà Nhà nước thực hiện nhằm công nhận và bảo vệ QSHCN. Cụ thể,

Nhà nước thực hiện các thủ tục xác lập QSHCN (cấp văn bằng bảo hộ), thực hiện quản lý nhà nước đối với QSHCN, xác định những hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN và quy định những biện pháp xử lý những hành vi vi phạm đó.

Ngược lại, thực thi QSHCN không liên quan đến xác lập QSHCN mà là việc thực hiện pháp luật về SHCN, nhằm chấm dứt hành vi xâm phạm QSHCN, tức là thông qua sự bắt buộc các chủ thể phải hoàn toàn tuân thủ, chấp hành pháp luật dù muốn hay không. Nói đến thực thi QSHCN là nói đến trình tự, thủ tục mà các chủ thể phải tuân theo, cũng như các biện pháp xử lý, các chế tài do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng khi có hành vi vi phạm. Xét về bản chất, nội dung quan trọng nhất của QSHCN là độc quyền sử dụng, khai thác đối tượng thuộc thẩm quyền. Vì vậy, thực thi QSHCN cũng có nghĩa là đảm bảo quyền khai thác, sử dụng đối tượng QSHCN của chủ thể nắm giữ quyền đó không gặp cản trở từ phía người thứ ba. Nói cách khác, bản chất của việc bảo đảm điều kiện cần thiết để chủ thể QSHCN thực hiện các quyền của mình là ngăn chặn mọi hành vi cản trở việc sử dụng, khai thác đối tượng QSHCN của chủ thể quyền.

Vấn đề bảo vệ quyền SHTT được quy định trong các công ước quốc tế về nền tảng về quyền SHTT như Công ước Berne năm 1883 về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật, Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ QSHCN và Hiệp định các khía cạnh thương mại của quyền SHTT năm 1994 (TRIPs). So với TRIPs, hệ thống luật pháp về SHTT của Việt Nam về cơ bản đã tương thích với các quy định của Hiệp định này. Tại Phần thứ năm của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 đã quy định về “Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ”, bao gồm các nội dung: quy định chung về bảo vệ quyền SHTT; xử lý xâm phạm quyền SHTT bằng các biện pháp dân sự, biện pháp hành chính, biện pháp hình sự, kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến SHTT. Từ những nội dung trên, có thể hiểu bảo vệ QSHTT nói chung và QSHCN nói riêng là việc các cơ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

quan nhà nước có thẩm quyền, thông qua hệ thống chính sách pháp luật bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu quyền, nhằm chống lại sự xâm phạm của bên thứ ba. Như vậy, bảo vệ QSHCN hiểu một cách chung nhất là tổng hợp các quy định của pháp luật công nhận các chủ thể QSHCN được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Thông qua các quy định của pháp luật, các cơ quan có thẩm quyền xác định những hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN và quy định các biện pháp xử lý những hành vi xâm phạm đó tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm.

Bảo vệ QSHCN hiện nay là đòi hỏi khách quan, có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với chủ thể quyền, chủ thể sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng mà còn liên quan đến sự phát triển của quốc gia. Bảo vệ QSHCN hiệu quả sẽ tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh, là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thu hút chuyển giao công nghệ và đầu tư nước ngoài. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, hệ thống bảo vệ QSHTT nói chung và QSHCN nói riêng còn lỏng lẻo, bất cập, vấn đề cấp thiết đặt ra là phải nâng cao hiệu quả bảo vệ QSHTT, QSHCN, đảm bảo sự công bằng, thúc đẩy hoạt động sáng tạo của cả xã hội.

Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự theo pháp luật Việt Nam - 3

1.2.1. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự

Biện pháp bảo vệ QSHTT là những cách thức được chính chủ thể quyền sử dụng hoặc được Nhà nước sử dụng để bảo vệ Quyền tác giả, QSHCN và quyền đối với giống cây trồng khi các quyền này bị xâm phạm. QSHCN là quyền dân sự tuyệt đối của chủ sở hữu mà những người khác có nghĩa vụ tôn trọng, không được thực hiện hành vi xâm phạm. Nhà nước với vai trò chủ đạo thiết lập một hệ thống pháp luật với những biện pháp bảo vệ nhất định nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm, bảo vệ quyền sở hữu cho chủ thể quyền. Cụm từ “biện pháp dân sự” được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ 2005. Việc đưa cụm từ “biện pháp dân sự” bên cạnh “biện pháp hành chính”, “biện

pháp hình sự”, “biện pháp kiểm soát biên giới” vào văn bản luật nói trên thể hiện sự chuyển thể các quy định tương ứng của Hiệp định TRIPs vào hệ thống văn bản pháp luật quốc gia.

Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự thực chất là thủ tục giải quyết tranh chấp QSHCN tại Tòa án, tức là những trình tự, thủ tục do pháp luật Tố tụng dân sự quy định để chủ thể QSHCN yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước sự xâm phạm của người khác; đồng thời là trình tự, thủ tục để Tòa án tiến hành giải quyết yêu cầu đó. Trong lĩnh vực SHTT, QSHCN là một quyền tài sản của chủ sở hữu, quyền này mang bản chất của một quyền dân sự. Do đó, biện pháp dân sự được coi là biện pháp chủ đạo và phù hợp với việc áp dụng để bảo vệ QSHCN, có khả năng giải quyết thỏa đáng, triệt để những thiệt hại mà chủ sở hữu quyền bị xâm phạm đã phải chịu, qua đó giúp các bên có được thái độ mềm dẻo, linh hoạt khi giải quyết, khắc phục những hạn chế mà các biện pháp khác không giải quyết được.

Trên thế giới hiện nay, bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự được đánh giá là cơ chế bảo vệ hữu hiệu và phổ biến nhất, nhưng ở Việt Nam thì trong thực tiễn xét xử trong những năm qua cho thấy có rất ít tranh chấp về QSHCN được đưa ra giải quyết ở Tòa án. Các chủ thể QSHCN thường chọn biện pháp hành chính để xử lý những hành vi xâm phạm quyền của mình. Một đặc điểm quan trọng của việc bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính chính là ý nghĩa trừng phạt đối với hành vi xâm phạm quyền. Bên cạnh đó, biện pháp hành chính có tính tăng nặng đối với các hành vi xâm phạm có tình tiết tăng nặng như: vi phạm có tổ chức, vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm, tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm khi người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó… Do vậy, việc bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính thường có tính răn đe và phòng ngừa cao. Tuy nhiên, biện pháp hành chính không thể buộc

người vi phạm bồi thường thiệt hại cho chủ thể quyền. Đây là hạn chế của việc thực thi QSHCN bằng biện pháp hành chính. Trong quá trình thụ lý và xử lý hành vi xâm phạm QSHCN bằng biện pháp hành chính, cơ quan hành chính có thẩm quyền chỉ xử phạt hành vi xâm phạm quyền, còn phần bồi thường thiệt hại của chủ thể quyền đề nghị tách riêng và thực hiện theo trình tự dân sự. Ngược lại, cơ chế dân sự điều chỉnh quan hệ giữa chủ sở hữu quyền và người xâm phạm quyền. Việc đền bù thiệt hại cho chủ thể quyền bị xâm phạm là một trong những nội dung cơ bản nhất của việc bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự, các chủ sở hữu QSHCN không chỉ được quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành vi xâm phạm QSHCN một cách có hiệu quả mà còn buộc bên vi phạm bồi thường những tổn thất về vật chất, tinh thần do hành vi xâm phạm ấy gây ra.

Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền SHCN

Như đã nói ở trên, vấn đề bảo vệ quyền SHTT nói chung và QSHCN nói riêng có ý nghĩa quan trọng đối với không chỉ chủ thể quyền, chủ thể sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng mà còn có tác động đến sự phát triển của quốc gia. Việc bảo vệ QSHCN chính là đảm bảo hiệu lực QSHCN của chủ thể quyền, từ đó khuyến khích hoạt động đầu tư sáng tạo, thúc đẩy những nỗ lực cống hiến của cá nhân vào hoạt động nghiên cứu khoa học – kĩ thuật – công nghệ; đồng thời, việc bảo vệ QSHCN hạn chế tổn thất cho các nhà sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy họ phát triển sản xuất buôn bán trong nước và quốc tế. Ngoài ra, việc bảo vệ và thực thi QSHCN hiệu quả còn tạo ra một xã hội văn minh phát triển, con người được lựa chọn và sử dụng những hàng hóa, dịch vụ chất lượng cao, thỏa mãn những nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần. Trong quan hệ thương mại quốc tế, việc bảo vệ QSHCN và thực thi QSHCN hiệu quả là cầu nối hữu hiệu để tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, xây dựng thị trường tự do, mở cửa. Tại Điều 7 của Hiệp định TRIPs quy định

rằng việc bảo vệ và thực thi quyền SHTT sẽ “góp phần thúc đẩy cải tiến, chuyển giao và phổ biến công nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và người sử dụng công nghệ, cũng như lợi ích kinh tế xã hội nói chung và bảo đảm sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ”. Hiện nay, nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển đã coi việc bảo vệ các tài sản trí tuệ của họ như là điều kiện không thể thiếu được trong việc thiết lập các quan hệ thương mại. Hiểu rõ vai trò của việc bảo vệ QSHCN trong việc phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam đang chú trọng xây dựng một hệ thống thực thi có hiệu quả trong hệ thống pháp luật bảo vệ quyền SHTT nói chung và QSHCN nói riêng để đưa đất nước nhanh chóng hội nhập với xu thế chung của thế giới.

1.3. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại và vai trò, ý nghĩa của việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự.

1.3.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại

Chỉ dẫn thương mại là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ bao gồm: nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá và nhãn hàng hoá. [18, Điều 130]

Các đối tượng như nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý đều là đối tượng của QSHCN, ba đối tượng này có đặc điểm chung nhất là giúp cá nhân, tổ chức phân biệt được chủ thể, dịch vụ - hàng hóa, nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm, người tiêu dùng lựa chọn đúng hàng hóa phù hợp với nhu cầu, chất lượng mà mình mong muốn, từ đó, giúp nhà sản xuất đẩy mạnh lưu thông hàng hóa. Mặt khác, các chỉ dẫn thương mại này thường được gắn lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện quảng cáo…do vậy các đối tượng này rất dễ bị làm giả, làm nhái, nguy cơ bị xâm phạm là rất lớn. Việc quy định về QSHCN đối với nhãn hiệu,

tên thương mại, chỉ dẫn địa lý mang ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp phải của các chủ thể quyền. Để hiểu rõ hơn về QHSCN đối với chỉ dẫn thương mại, người viết xin phép phân tích QSHCN của từng đối tượng mà đề tài đã giới hạn.

Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu:

Trong các đối tượng của QSHCN thì nhãn hiệu được coi là đối tượng có vai trò rõ rệt nhất trong quá trình lưu thông hàng hóa. Bằng nhãn hiệu, nhà sản xuất có thể đánh dấu hàng hóa, dịch vụ mà mình đưa ra thị trường, là thông tin trước hết và cơ bản đầu tiên mà người tiêu dùng nhận thức được đối với loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể. Từ đó, tác động trực tiếp đến việc lưu thông hoàng hóa, tăng hoặc giảm doanh số bán hàng. QSHCN đối với nhãn hiệu theo pháp luật mỗi nước cũng như trong các Điều ước quốc tế có khác nhau vì bị chi phối bởi quan điểm về các dấu hiệu cấu thành nên nhãn hiệu. Các Điều ước quốc tế đa phương và song phương điều chỉnh lĩnh vực liên quan đến nhãn hiệu khá nhiều như Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp 1883, Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu năm 1981 và Nghị định thư liên quan đến Thỏa ước Madrid năm 1989…Các Điều ước quốc nêu trên chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể về nhãn hiệu hay một khái niệm rõ ràng về QSHCN đối với nhãn hiệu mà thông qua các quy định về xác lập QSHCN, quy định về trình tự thủ tục xác lập QSHCN đối với nhãn hiệu cho thấy QSHCN đối với nhãn hiệu đã được ghi nhận. Đến Hiệp định TRIPS năm 1995 đã đưa ra khái niệm khá hoàn chỉnh về nhãn hiệu tại khoản 1 Điều 15:

Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu hàng hoá. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình hoạ và tổ hợp các mầu sắc cũng như

tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hoá. Trường hợp bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ tương ứng, các Thành viên có thể quy định rằng khả năng được đăng ký phụ thuộc vào tính phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng. Các Thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được. [35, Điều 15]

Có thể nói, khái niệm về nhãn hiệu của TRIPS đã mở rộng hơn rất nhiều so với các Điều ước quốc tế trước đó, nó là cơ sở để các quốc gia xây dựng cho mình một khái niệm riêng phù hợp. Tiếp thu những quan điểm tiến bộ của các Điều ước quốc tế về khái niệm nhãn hiệu và QSHCN đối với nhãn hiệu, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 đã giải thích nhãn hiệu là “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.” [18, Điều 4] và đó là “dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc‟‟ [18, Điều 72]. Các dấu hiệu này tiếp tục được làm rõ thông qua Điều 73, Điều 74 quy định về dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu, về khả năng phân biệt của nhãn hiệu. Khái niệm về nhãn hiệu trong Luật Sở hữu trí tuệ 2005 đã có những thay đổi tích cực và gần hơn với quy định trong Hiệp định TRIPs, từ đó tạo cơ sở cho việc thực thi quyền SHTT có hiệu quả.

Từ những phân tích ở trên, QSHCN đối với nhãn hiệu có thể hiểu một cách chung nhất là quyền của các chủ thể do pháp luật quy định hoặc thừa nhận đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ với các chủ thể khác, bao gồm dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.

Xem tất cả 118 trang.

Ngày đăng: 22/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí