nắm giữ quyền) khai thác, sử dụng các đối tượng QSHCN đang trong thời hạn bảo hộ nhằm mục đích kinh doanh mà không được phép của người nắm giữ quyền và không thuộc các trường hợp pháp luật cho phép sử dụng. Như vậy, mục đích của thực thi QSHCN là ngăn ngừa và xử lý các hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN, tạo ra sức sống trên thực tế cho các quy phạm pháp luật về SHCN.
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và thực thi QSHCN là hai khâu có liên quan chặt chẽ với nhau trong quá trình bảo vệ QSHCN. Tuy nhiên đây là hai khái niệm có nội hàm khác nhau. Bảo hộ QSHCN được hiểu là việc nhà nước bằng những quy định của pháp luật, xác lập QSHCN, xác định những hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN và quy định những biện pháp xử lý những hành vi vi phạm đó. Thực thi QSHCN là việc thực hiện pháp luật về SHCN thông qua sự bắt buộc các chủ thể phải hoàn toàn tuân thủ, chấp hành pháp luật dù muốn hay không muốn. Nói tới thực thi QSHCN là nói đến trình tự, thủ tục mà các chủ thể phải tuân theo, cũng như các biện pháp xử lý, các chế tài do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng khi có hành vi vi phạm.
Trước đây, trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực QSHCN, cũng như trong các điều ước quốc tế đều sử dụng thuật ngữ “bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ”. Thuật ngữ này được sử dụng phổ biến trong mọi hoạt động của lĩnh vực sở hữu trí tuệ, từ hoạt động xây dựng pháp luật, hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ đến các hoạt động thực thi QSHCN. Tuy nhiên, trong Luật SHTT, bên cạnh việc quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại các phần từ Phần thứ nhất đến Phần thứ tư, thì tại Phần thứ năm của Luật SHTT còn quy định về “bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ”.
Theo Từ điển tiếng Việt, “bảo vệ” là “chống lại mọi sự xâm phạm để giữ cho luôn luôn được nguyên vẹn” [39]. Trong Luật SHTT, các quy định về bảo vệ quyền SHTT bao gồm các nội dung như: quy định chung về bảo
vệ QSHTT; xử lý xâm phạm QSHTT bằng các biện pháp dân sự; xử lý xâm phạm QSHTT bằng các biện pháp hành chính và hình sự; kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến SHTT. Từ các nội dung trên, có thể hiểu bảo vệ QSHTT nói chung và bảo vệ QSHCN nói riêng là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thông qua hệ thống chính sách và pháp luật, bảo vệ các quyền và các lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu QSHCN nhằm chống lại bất kỳ sự vi phạm nào của phía thứ ba.
Tóm lại, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp được hiểu là bằng những quy định của pháp luật, Nhà nước xác định những hành vi bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và quy định các biện pháp xử lý những hành vi vi phạm đó, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác trong hoạt động sở hữu công nghiệp.
Bảo vệ QSHCN hiện nay là đòi hỏi khách quan, không chỉ nhằm bảo vệ quyền của người sáng tạo, mà còn là cơ chế bảm bảo sự công bằng, thúc đẩy hoạt động sáng tạo tìm tòi của con người, góp phần bảo đảm một nền thương mại bình đẳng, dựa trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh; góp phần thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ hợp pháp, qua đó nâng cao sự phát triển của toàn xã hội [32].
1.1.2.2. Khái niệm bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự và ý nghĩa của việc bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự
Bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự thực chất là thông qua các quy định của pháp luật dân sự để xử lý các hành vi xâm phạm QSHCN của cá nhân, tổ chức đối với các chủ thể QSHCN. Bản chất của biện pháp dân sự là thông qua việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến QSHCN tại Tòa án nhân dân, các chủ sở hữu QSHCN không chỉ được quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành vi xâm phạm QSHCN một cách có hiệu quả mà còn buộc bên vi phạm bồi thường thiệt hại do hành vi đó gây ra đối với thiệt hại về vật chất và tinh thần.
Thông qua việc giải quyết các tranh chấp về QSHCN, Tòa án sẽ bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật về SHCN. Việc giải quyết các tranh chấp về QSHCN tại Tòa án là cơ chế bảo hộ hữu hiệu nhất hiện nay, bởi QSHCN với bản chất là quyền dân sự, do vậy tranh chấp phát sinh từ QSHCN là các tranh chấp dân sự. Bảo vệ QSHCN không chỉ bảo vệ quyền tài sản mà còn gắn liền với việc bảo vệ quyền nhân thân của chủ sở hữu QSHCN. Trong đó quyền nhân thân là quyền thể hiện mối liên hệ không thể tách rời giữa tác giả với các đối tượng của QSHCN, còn quyền tài sản là quyền được hưởng những lợi ích vật chất từ việc cho phép sử dụng các đối tượng QSHCN thuộc sở hữu của mình.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự - 1
- Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự - 2
- Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Bằng Biện Pháp Dân Sự
- Hiệp Định Giữa Việt Nam Và Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ Về Thương Mại Và Sở Hữu Trí Tuệ (Hiệp Định Bta)
- Xác Định Yếu Tố Xâm Phạm Quyền Đối Với Sáng Chế
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
Như trên đã đề cập, nói đến QSHCN là nói đến sự công nhận từ phía nhà nước đối với một quyền dân sự của các cá nhân, tổ chức. Bởi vậy, QSHCN trước hết và chủ yếu là một loại quyền dân sự, pháp luật về bảo vệ QSHCN cũng theo các nguyên tắc bảo vệ các quyền dân sự khác. Theo nguyên tắc này, người chiếm giữ QSHCN có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền của mình khi có sự xâm phạm.
Thông thường tại nhiều quốc gia trên thế giới, QSHCN được bảo vệ bằng biện pháp tư pháp, trong đó thủ tục tố tụng dân sự đóng vai trò chủ đạo, thủ tục tố tụng hình sự chỉ áp dụng ở những hành vi cố ý, xâm phạm với quy mô thương mại và thường chỉ giới hạn trong lĩnh vực nhãn hiệu hàng hóa. QSHCN cần được bảo vệ bằng biện pháp tư pháp và áp dụng thủ tục tố tụng dân sự bởi bản chất QSHCN là một quyền dân sự, do chủ thể quyền và người liên quan có yêu cầu và được giải quyết theo trình tự, thủ tục nhất định, luôn tuân thủ các nguyên tắc của Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự và luôn thể hiện sự bình đẳng giữa các bên trong quan hệ tranh chấp, qua đó giúp các bên có được thái độ mềm dẻo, linh hoạt khi qiải quyết, khắc phục những hạn chế mà biện pháp khác không giải quyết được. Như vậy, bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự được hiểu là việc các đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết các tranh chấp liên quan đến các đối
tượng của QSHCN để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
So với bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính, chúng ta thấy: đặc điểm quan trọng của việc bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính chính là ý nghĩa trừng phạt đối với hành vi xâm phạm quyền. Mọi hành vi xâm phạm, người thực hiện hành vi xâm phạm mà có gây tổn hại cho xã hội thì đều bị coi là vi phạm pháp luật và bị xử lý hành chính. Bên cạnh đó, biện pháp hành chính có tính tới đến tăng nặng mức phạt đối với các tình tiết tăng nặng như: vi phạm có tổ chức, vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm, tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm khi người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó, sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che dấu vi phạm... Tuy nhiên, biện pháp hành chính không thể buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại cho chủ thể quyền. Đây là hạn chế của việc thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính. Trong quá trình thụ lý và xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, cơ quan hành chính có thẩm quyền thường chỉ xử phạt hành vi xâm phạm quyền, còn phần yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của chủ thể quyền đề nghị tách riêng và thực hiện theo trình tự dân sự.
Ngược lại, cơ chế dân sự điều chỉnh quan hệ giữa chủ sở hữu quyền và người xâm phạm quyền. Chẳng hạn, việc đền bù thiệt hại đã khắc phục tác hại của hành vi xâm phạm quyền gây ra cho người nắm giữ quyền, mà không đền bù thiệt hại cho người thứ ba và xã hội. Các biện pháp xử lý do biện pháp dân sự đưa ra về căn bản, giúp lặp lại thế cân bằng lợi ích cho người có quyền bị xâm phạm. Đối với người thực hiện hành vi xâm phạm, sau khi bị xử lý bằng biện pháp dân sự sẽ trở về trạng thái ban đầu trước khi thực hiện hành vi xâm phạm và không phải chịu trách nhiệm nặng hơn khi tiếp tục có hành vi xâm phạm. Chính vì vậy, việc thực hiện bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự sẽ đạt được mục tiêu là ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của chủ thể quyền.
Tuy nhiên, hiện nay nhiều ý kiến cho rằng: ý nghĩa trừng phạt của biện pháp hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền thì việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính có tác dụng răn đe và phòng ngừa cao và chính vì vậy nó bảo đảm khắc phục phần nào khiếm khuyết trong việc thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự. Mặt khác, việc xâm phạm QSHCN nếu muốn xử lý theo thủ tục dân sự, thì bản thân chủ thể quyền hoặc đại diện của chủ thể quyền (nguyên đơn) phải gửi đơn khiếu kiện đến Toà án và phải đáp ứng yêu cầu tự chứng minh (tự cung cấp các chứng cứ để chứng minh hành vi xâm phạm quyền đối với bị đơn). Việc xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo thủ tục hành chính không bắt buộc chủ sở hữu quyền phải có đơn khiếu tố về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của mình. Một vụ xâm phạm, vi phạm về sở hữu công nghiệp, nếu được dư luận phát hiện hoặc do chính cơ quan có thẩm quyền biết được, thì đều có thể dẫn tới việc áp dụng các biện pháp hành chính đối với hành vi xâm phạm đó. Bên cạnh đó, cơ quan hành chính có thẩm quyền có thể tự thu thập chứng cứ để xác minh làm rõ đối với hành vi xâm phạm quyền cho quyết định xử lý của mình.
Ý nghĩa của việc bảo vệ QSHCN
Mục tiêu cuối cùng của hệ thống bảo vệ QSHCN chính là chống lại nguy cơ bị lợi dụng hoặc chiếm đoạt kết quả đầu tư sáng tạo và bảo vệ các cơ hội cho người đã đầu tư để tạo ra các kết quả sáng tạo đó, nhờ vậy mà kích thích, thúc đẩy các nỗ lực sáng tạo trong nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh. Hiển nhiên, mục tiêu nói trên sẽ không đạt được nếu không khắc phục được tệ nạn xâm phạm QSHCN. Hệ thống bảo vệ QSHCN chính là đảm bảo ngăn ngừa và xử lý các hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN. Vì vậy, bảo vệ QSHCN chính là bảo đảm hiệu lực QSHCN của chủ thể quyền, khuyến khích hoạt động đầu tư sáng tạo, phát triển sản xuất, buôn bán trong nước.
Trong quan hệ thương mại quốc tế, việc QSHCN không được bảo vệ và thực thi thoả đáng, hiệu quả thì sẽ bị coi là thực tiễn thương mại thiếu lành mạnh và là rào cản đối với thị trường tự do và mở cửa. Vì, khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường đó không cần đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D), có thể bắt chước, sao chép và bán các sản phẩm với giá rẻ hơn nhiều, và vì thế chiếm chỗ và loại các sản phẩm hợp pháp và chính hiệu ra khỏi thị trường đó. Kết quả là các nhà sản xuất chân chính không có khả năng thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận cần thiết để tiếp tục duy trì hoạt động cải tiến và sáng tạo, bao gồm cả việc tạo ra các sản phẩm mới, làm thiệt hại đối với các quyền lợi thương mại và đầu tư của họ. Hiện nay, nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển, đã coi việc bảo vệ các tài sản trí tuệ của họ như là điều kiện không thể thiếu được trong việc thiết lập các quan hệ thương mại (ví dụ như Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ). Tại Điều 7 của Hiệp định TRIPs quy định rằng, việc bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ “góp phần thúc đẩy cải tiến, chuyển giao và phổ biến công nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và người sử dụng công nghệ, cũng như lợi ích kinh tế - xã hội nói chung và bảo đảm sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ”. Do đó, nếu hệ thống thực thi quyền sở hữu công nghiệp không hiệu quả thì sẽ làm tổn hại đến chính sách hội nhập quốc tế và đầu tư nước ngoài của quốc gia cho sự phát triển của mình.
Hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng của hệ thống thương mại toàn cầu, sự bùng nổ của công nghệ thông tin đã kích thích nhu cầu của người tiêu dùng tăng lên nhanh chóng và ngày càng đa dạng. Điều đó đòi hỏi các nhà sản xuất phải nhanh chóng đưa ra thị trường các sản phẩm mới có sự thay đổi về kiểu dáng, mẫu mã, cũng như sự hoàn thiện về tính năng, tác dụng. Có thể khẳng định rằng, hiện nay không có hàng hoá có giá trị nào được thị trường chấp nhận mà lại không chứa các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là một điều kiện không thể thiếu để các nhà sản xuất có thể duy trì và mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh. Do đó, có thể nói, các đối tượng sở hữu công nghiệp được tạo ra để đáp ứng nhu cầu nhất định của người tiêu dùng và việc đảm bảo thực thi quyền sở hữu công nghiệp cũng chính là bảo đảm cho người tiêu dùng được sử dụng sản phẩm chính hiệu, đảm bảo chất lượng đúng bản chất của nó. Và như vậy, hệ thống bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp không chỉ bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu, mà còn là phương tiện để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Tức là hệ thống thực thi quyền sở hữu công nghiệp còn có ý nghĩa nhất định đối với xã hội.
Hiểu rõ vai trò của việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp trong phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam đang chú trọng tạo dựng một hệ thống thực thi có hiệu quả trong hệ thống bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng để đạt được sự phát triển kinh tế đất nước nhanh chóng trong xu thế hội nhập với chính sách phát huy nội lực và tranh thủ sự đầu tư nước ngoài.
1.1.3. Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp
Tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm, vi phạm hoặc tranh chấp về sở hữu công nghiệp, có thể áp dụng một hoặc một số trong ba loại trình tự pháp luật sau đây với mục đích nhằm bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp: bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự (tiến hành các vụ kiện theo thủ tục dân sự); bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính (đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính) và bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hình sự (xét xử tội phạm về sở hữu công nghiệp). Cụ thể từng loại trình tự đó như sau:
1.1.3.1. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp theo trình tự hành chính (bằng biện pháp hành chính) là thủ tục xử lý hành chính các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bằng việc áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành
chính đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật.
Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành các thủ tục xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp, hay nói cách khác là các cơ quan thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, là các cơ quan thuộc hệ thống hành pháp có chức năng liên quan đến quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp. Các cơ quan thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính không chỉ căn cứ vào đơn yêu cầu của chủ thể quyền bị xâm phạm mà còn chủ động phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật về sở hữu công nghiệp (trong đó có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp) trong quá trình thực hiện các hoạt động thanh tra, kiểm tra các đối tượng thuộc quyền quản lý của mình theo chức năng được pháp luật quy định hoặc theo đơn tố cáo của công dân để xử phạt hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật. Hành vi vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp là hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định về bảo hộ (xâm phạm quyền) và quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp, nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự của mọi tổ chức, cá nhân hoạt động trên phạm vi lãnh thổ của quốc gia đều bị xử phại hành chính.
Hình thức xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp gồm các hình thức sau:
(i) Hình thức xử phạt chính là: Cảnh cáo hoặc phạt tiền;
(ii) Hình thức xử phạt bổ sung: Tước quyền sử dụng có thời hạn hoặc không có thời hạn giấy phép có liên quan đến hoạt động sở hữu công nghiệp; Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp;
(iii) Các biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc tiêu huỷ vật phẩm, hàng hoá vi phạm; buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên sản phẩm, hàng hoá, phương tiện kinh doanh...