được cung cấp những thông tin cơ bản về tình hình tài chính, hoạt động của công ty.
Công ty cổ phần chưa niêm yết chứng khoán là loại hình công ty vốn tiềm ẩn trong đó nhiều yếu tố bất ổn và tồn tại ngoài ý muốn chủ quan của các cổ đông.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
1.2.1. Cổ đông, quyền cổ đông
• Khái niệm cổ đông
Cổ đông là người đã góp vốn vào công ty cổ phần bằng cách mua cổ phần của công ty. Khi đã đưa tài sản vào công ty, quyền sở hữu tài sản của cổ đông được chuyển sang cho công ty. Ngược lại, họ trở thành các đồng sở hữu chủ của công ty. Cổ đông có quyền lợi đối với công ty tương ứng với phần vốn góp của mình.
Hiện có một số học thuyết về quyền của cổ đông trong công ty cổ phần. Thuyết cổ điển cho rằng, các quyền của cổ đông có cội nguồn từ khế ước. Một thuyết khác, coi công ty cổ phần là một quốc gia thu nhỏ (Ministate), do đó quyền của cổ đông có thể đem so với những quyền cơ bản của công dân mà nhà nước phải đảm bảo. Các quyền cơ bản gồm quyền mang tính "chính trị" (quyền quyết định những vấn đề quan trọng của công ty) và quyền mang tính tài sản (quyền hưởng cổ tức).
Người Mỹ lại quan niệm mối quan hệ giữa công ty và cổ đông là quan hệ giữa "người thụ thác" (trustee) và "người hưởng lợi" (beneficial owner). Quyền cổ đông xuất phát từ quyền thụ hưởng lợi ích từ tài sản đã ký thác vào công ty mà không cần phải nắm quyền sở hữu tài sản [47].
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo vệ quyền lợi của cổ đông trong công ty cổ phần chưa niêm yết chứng khoán theo pháp luật Việt Nam - 1
- Bảo vệ quyền lợi của cổ đông trong công ty cổ phần chưa niêm yết chứng khoán theo pháp luật Việt Nam - 2
- Khái Niệm Về Công Ty Cổ Phần Theo Pháp Luật Việt Nam
- Bảo Vệ Cổ Đông Theo Pháp Luật Một Số Quốc Gia Trên Thế Giới
- Bảo Vệ Cổ Đông Trong Công Ty Cổ Phần Theo Luật Doanh Nghiệp (2005)
- Bảo vệ quyền lợi của cổ đông trong công ty cổ phần chưa niêm yết chứng khoán theo pháp luật Việt Nam - 7
Xem toàn bộ 90 trang tài liệu này.
• Các loại cổ đông
Công ty cổ phần có nhiều loại cổ phần khác nhau, mỗi loại cổ phần tạo cho người sở hữu nó (cổ đông) các quyền và nghĩa vụ nhất định, kéo theo
sự khác nhau trong cơ chế bảo vệ quyền cổ đông. Luật các nước trên thế giới thường phân loại cổ đông thành cổ đông phổ thông và cổ đông ưu đãi.
Cổ đông phổ thông là loại cổ đông không thể thiếu và cũng loại loại phổ biến nhất trong công ty cổ phần. Người nắm giữ cổ phần phổ thông gọi là cổ đông phổ thông, họ được coi là người chủ sở hữu của công ty.
Vì vậy, họ được hưởng những lợi ích về kinh tế, cũng như tất cả các quyền khác mà Luật Doanh nghiệp quy định cho một cổ đông. Những người sáng lập phải nắm ít nhất 20% số cổ phần phổ thông được chào bán trong 3 năm đầu kể từ khi công ty có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Những người sáng lập khi muốn chuyển cho người không phải là cổ đông trong công ty phải được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông (Đ58 Luật Doanh nghiệp).
Cổ đông phổ thông là loại cổ đông không thể thiếu và cũng là loại phổ biến nhất trong công ty cổ phần. Cổ đông phổ thông có đầy đủ các quyền cơ bản của chủ sở hữu công ty: Quyền tham dự và biểu quyết tại cuộc họp cổ đông, quyền nhận cổ tức, quyền chuyển nhượng cổ phần…
Cổ đông ưu đãi là cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi sau:
Cổ phần ưu đãi biểu quyết là loại cổ phần cho người nắm giữ chúng số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ đông phổ thông trong Đại hội đồng cổ đông.
Người sở hữu loại cổ phần này, cũng có các quyền khác như cổ đông phổ thông, nhưng họ không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác (khoản 3, Điều 81, Luật Doanh nghiệp năm 2005).
Chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết
của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông. (khoản 3, Điều 78, Luật Doanh nghiệp năm 2005).
So với cổ đông phổ thông, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi được hưởng một số ưu đãi (quyền hoặc lợi ích) đồng thời chịu những hạn chế nhất định về quyền. Việc ấn định các quyền lợi cụ thể cho cổ phần ưu đãi thường do các công ty tự đề ra, sau khi được luật ghi nhận. Luật Doanh nghiệp năm 2005, ghi nhận những cổ phần ưu đãi sau:
Cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do Điều lệ công ty quy định (Khoản 1, Điều 8, Luật Doanh nghiệp năm 2005). Người sở hữu cổ phần này, cũng có các quyền khác như cổ đông phổ thông.
Cổ phần ưu đãi cổ tức là cổ phần được trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm. Cổ tức được chia hằng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng. Cổ tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Mức cổ tức cố định cụ thể và phương thức xác định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ tức (Khoản 1, Điều 82, Luật Doanh nghiệp).
Cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi cổ tức không có quyền biểu quyết, không có quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông, không có quyền đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát.
Cổ phần ưu đãi hoàn lại là cổ phần được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại. Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại có các quyền khác như cổ đông phổ thông, trừ một số trường hợp: không có quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát (Điều 33, Luật Doanh nghiệp năm 2005).
Ở một số nước quy định người nắm cổ phiếu ưu đãi không được biểu quyết các công việc kinh doanh của công ty. Một số công ty cơ cấu vốn cổ phần tỷ lệ cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thưởng theo tỷ lệ 20% và 80%. Giữa cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi có thể hoán cải cho nhau tùy theo pháp luật và điều lệ công ty quy định.
Trong thực tiễn người ta có thể phát hành nhiều loại cổ phiếu ưu đãi như: Cổ phiếu ưu đãi thành cổ phiếu thường (cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi) và cổ phiếu ưu đãi không chuyển đổi; cổ phiếu ưu đãi lợi tức; cổ phiếu ưu đãi biểu quyết; cổ phiếu ưu đãi dồn lãi (Cổ đông được quyền nhận cổ tức lần đầu tiên rất lớn bao gồm cả lợi tức giai đoạn trước đây khi công ty chưa trả) và cổ phiếu ưu đãi không dồn lãi…
Hiện nay, ở một số nước còn phát hành thêm loại cổ phiếu ưu đãi dồn lãi trong phạm vi lợi nhuận kiếm được. Thực chất, đó là sự phối hợp giữa cổ phiếu dồn và không dồn lãi. Đặc điểm của nó là trong thời gian trước đây, đáng lẽ công ty phải trả cho cổ đông một khoản lợi tức cố định nhưng do làm ăn thua lỗ không trả được thì trong thời gian sau này khi công ty làm ăn có lãi các cổ đông sẽ có quyền nhận lại toàn bộ số lợi tức cổ phần mà thời gian trước đây chưa trả.
Điểm đáng lưu ý, theo luật các nước Thái Lan, Singapore, Malaysia, Philipinese thì cổ phần ưu đãi biểu quyết chỉ tồn tại trong công ty không phát hành chứng khoán, nếu không các nhà đầu tư sẽ e ngại khi mua chứng khoán [15].
Cổ đông đa số, cổ đông thiểu số: Căn cứ vào lượng cổ phần mà cổ đông sở hữu, sẽ có cổ đông nắm giữ nhiều cổ phần, cổ đông nắm giữ ít cổ phần. Do nguyên tắc quyết định theo đa số trong chế độ hoạt động của Đại hội đồng cổ đông, cổ đông có nhiều cổ phần trở thành đa số; còn người có ít cổ phần trở thành thiểu số khi biểu quyết. Vì vậy, cổ đông đa số có khả năng nhiều ưu thế hơn cổ đông thiểu số trong việc tiếp cận thông tin, kiểm soát hoạt động của công ty.
Cổ đông thiết chế, cổ đông cá nhân: Trong một công ty có phát hành chứng khoán trên thị trường, có hai loại cổ đông là cổ đông thiết chế (còn gọi là cổ đông có tổ chức) và cổ đông cá nhân (cổ đông lẻ). Cổ đông có tổ chức thường là ngân hàng, các công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, quỹ hưu trí có tiềm lực tài chính mạnh. Khác với cổ đông cá nhân có xu hướng bán cổ phiếu ngay khi lên giá, việc chuyển nhượng cổ phần của cổ đông tổ chức thường ít xảy ra hơn. Chỉ có hai quốc gia là Anh, Mỹ có cấu trúc cổ đông đa phần là cá nhân, còn lại cổ đông có tổ chức vẫn là cổ đông đa số chi phối các công ty cổ phần ở các nước phát triển cũng như đang phát triển [28].
1.2.2. Sự cần thiết bảo vệ cổ đông trong công ty cổ phần
Luật Doanh nghiệp (hay Luật Công ty) là bảo vệ lợi ích của cổ đông bằng việc quy định các nhà quản lý phải hành động vì lợi ích tốt nhất cho cổ đông, đồng thời ngăn chặn khả năng các cổ đông đa số lợi dụng vị thế tước đoạt lợi ích hợp pháp của cổ đông thiểu số.
Không chỉ là mối quan tâm của các nhà lập pháp, bảo đảm thực thi các quyền của tất cả các cổ đông cũng là mục tiêu hướng tới của quản trị công ty. Quản trị công ty được hiểu là hệ thống các quy chế phân định rõ quyền hạn giữa các cơ quan trong công ty, giữa cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc và các bên có liên quan khác. Qua đó, công ty thực hiện được mục tiêu phát triển hiệu quả trong khi vẫn tôn trọng lợi ích của các bên liên quan và xã hội.
Một hệ thống pháp luật bảo vệ tốt cổ đông trong công ty cổ phần phải đảm bảo các yếu tố như: (i) Các quy định của pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích của cổ đông; (ii) Cơ chế giám sát việc thực thi hiệu quả các quy định đó.
Những quy định bảo đảm quyền của cổ đông không chỉ tồn tại trong luật công ty mà còn có thể tìm thấy trong luật lệ về chứng khoán, kiểm toán… Hơn nữa, nếu thiếu sự đảm bảo thực thi hiệu quả từ tòa án, cơ quan đăng ký kinh doanh, Ủy ban chứng khoán và các thiết chế trung gian như luật sư, kiểm toán thì chẳng khác gì luật ban hành cho có luật.
Từ lâu, các nhà quản lý đã nhận thức được rằng để đảm bảo cho nền kinh tế cũng như thị trường chứng khoán phát triển bền vững, thì việc đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật bảo vệ các cổ đông là một nhu cầu tất yếu. Ở các nền kinh tế đang phát triển, việc bảo vệ cổ đông cũng là một trọng tâm của luật công ty, nơi mà hệ thống luật pháp cũng như cơ chế thực thi luật còn chưa được hoàn thiện.
Luật pháp phải thiết kế quy tắc và cơ chế bảo vệ cổ đông vì những nguyên nhân sau:
(i) Sự lạm quyền của người quản lý công ty;
Sự tách bạch giữa sở hữu và quản lý là một trong những đặc trưng của công ty cổ phần. Các cơ hội kinh doanh có thể bỏ lỡ nếu lúc nào các quyết định cũng cần phê chuẩn của tất cả các cổ đông cư trú ở khắp mọi nơi. Do vậy, các cổ đông phải trao quyền lực cho một đội ngũ quản lý chuyên nghiệp "dùng tiền của mình để kinh doanh", những người này có thể có hoặc không có cổ phần trong công ty. Tuy nhiên, không phải lúc nào người quản lý (Hội đồng quản trị, Ban giám đốc và các chức danh quản lý khác) cũng hành động vì mục tiêu tối đa hóa của cải cho các cổ đông. Các xung đợt về lợi ích (conflicts of interest) giữa cổ đông và người quản lý luôn hiện hữu, xuất phát từ mối quan hệ "ủy quyền - tác nghiệp" (agency) giữa cổ đông và người quản lý [21].
Người quản lý có thể tiến hành các giao dịch gây phương hại đến lợi ích của công ty và cổ đông, thậm chí chiếm đoạt lợi ích của cổ đông (expropriation of shareholders). Chẳng hạn như: dùng tài sản của công ty để mưu lợi riêng thông qua việc trả lương quá cao, mua tài sản của công ty với giá hời, vay vốn công ty với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường, nâng giá trị hợp đồng việc thuê văn phòng, kho bãi…Vì lẽ đó, cổ đông cần được trao các công cụ nhằm kiểm soát người quản lý để đảm bảo họ hành động vì lợi ích của công và vì lợi ích của cổ đông. Luật pháp các nước, ít hay nhiều, đều thiết
lập các nguyên tắc pháp lý, các cơ chế bầu, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, trách nhiệm của Hội đồng quản trị, giám sát các giao dịch dễ gây rủi ro cho công ty và cổ đông.
(ii) Sự áp đảo của cổ đông kiểm soát (controlling shareholders) với cổ đông thiểu số (minority shareholders)
Trong công ty cổ phần, quyền của các cổ đông tương ứng với số vốn đã góp vào công ty. Do vậy, cổ đông góp nhiều vốn (tức có nhiều cổ phần, cụ thể là cổ đông có quyền biểu quyết) sẽ có nhiều ưu thế hơn đối với hoạt động quản lý công ty. Với nguyên tắc thông qua các quyết định quản lý thông thường khi có quá nửa số cổ phần biểu quyết tại Đại hội cổ đông chấp thuận, cổ đông nắm ít cổ phần có quyền biểu quyết chịu lép vế, nếu không muốn nói là bị loại ra khỏi cuộc sống của Đại hội đồng cổ đông [44, tr. 90]. Quyền đối với hoạt động quản lý công ty thuộc về số ít các cổ đông lớn. Một mặt khi nhóm nhỏ cổ đông chi phối hoạt động của công ty, họ sẽ có động cơ để tối đa hóa giá trị công ty phục vụ lợi ích của chính mình. Mặt khác, lợi ích từ hoạt động kinh doanh của công ty có khả năng bị phân phối không công bằng cho đã số các cổ đông nhỏ, sự lạm quyền của nhóm cổ đông chi phối có khả năng gây hại cho những cổ đông nhỏ còn lại.
Vấn đề bảo vệ cổ đông thiểu số còn quan trọng hơn ở các nước đang phát triển. Theo một nghiên cứu gần đây cho thấy 68% các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán ở các nước Đông Á có một số cổ đông nắm quyền kiểm soát. Đó có thể là gia đình, hay nhà nước. Khả năng cổ đông lớn cấu kết với giới quản lý để thu lợi, dẫn đến thiệt hại cho cổ đông thiểu số là rất cao [30].
Mặt khác, trong tương quan so ánh với các chủ thể có mối liên hệ với công ty như chủ nợ, người lao động, người cung cấp nguyên vật liệu, cổ đông với tư cách là người góp vốn kinh doanh luôn chịu rủi ro nhiều hơn. Thế nhưng, lợi ích của cổ đông khó có thể được bảo vệ thích đáng chỉ bởi các thỏa
thuận hợp đồng. Điều này luận giải vì sao luật pháp cần quy định cho đối tượng này những quyền nhất định để kiểm soát hoạt động của công ty.
Trong công ty cổ phần, đối tượng cần được bảo vệ không phải là người quản lý công ty vì họ có quyền và thông tin, và có lẽ cũng không phải cổ đông lớn có khả năng chi phối hoạt động công ty, mà chính là cổ đông thiểu số, riêng lẻ.
1.2.3. Vai trò của bảo vệ cổ đông trong công ty cổ phần
• Vai trò đối với công ty và nhà đầu tư
Khi pháp luật bảo vệ cổ đông có hiệu quả, các nhà đầu tư có nhiều động lực hơn bỏ vốn vào công ty cổ phần. Đối với các công ty thu hút vốn cổ phần, khả năng huy động vốn sẽ gia tăng một khi nhà đầu tư yên tâm rằng đồng vốn đầu tư của mình được bảo toàn và phát triển, các quyền và lợi ích được bảo đảm.
Quản trị công ty tốt cần đảm bảo các quyền cơ bản của cổ đông cũng như đối xử bình đẳng giữa các cổ đông. Sự thành công của các công ty có hệ thống quản trị nội bộ chú trọng bảo vệ cổ đông như các công ty của Mỹ so với các công ty khác của Đức, Nhật trong những thập kỷ gần đây là minh chứng cho lợi ích lâu dài của bảo vệ cổ đông trong công ty cổ phần. Ngược lại, sự sụp đổ của Enron, Worldcom là do không công khai, minh bạch về tài chính, kiểm toán chính là ví dụ sinh động cho hậu quả của việc bảo vệ cổ đông kém tác động lên sinh mệnh công ty như thế nào [1].
• Vai trò đối với nền kinh tế
Bảo vệ cổ đông hiệu quả có tác động tích cực lên toàn bộ nền kinh tế.
Thứ nhất, nó thúc đẩy thị trường chứng khoán [54]. Các nghiên cứu đã chỉ rằng quy mô của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế có mối liên hệ nhất định với mức độ nhà đầu được bảo vệ. Trọng tâm của pháp luật và thể